
Chuyên đề góp ý cho EPR: Bài 3: Nhận diện về thuận lợi, khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành nhựa khi thực hiện EPR với bảo vệ môi trường
22/11/2023TN&MTTheo thực tế, phần lớn các doanh nghiệp được khảo sát đều cam kết thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường (BVMT) trong hoạt động sản xuất kinh doanh và nhận thức được rằng việc thực thi nghiêm túc các quy định luật pháp về BVMT sẽ giúp phát triển, nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp trong xã hội. Do đó, việc thực hiện hiệu quả cơ chế trách nhiệm nhà sản xuất (EPR) được nhìn nhận như một hình thức để doanh nghiệp thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội của mình.
Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà (nay là Phó Thủ tướng) cho biết, những năm vừa qua, WWF đã có một số hoạt động hợp tác, hỗ trợ một số đơn vị trực thuộc Bộ thông qua hoạt động thực hiện các dự án hợp tác và hỗ trợ chuyên gia, tập trung ở các lĩnh vực môi trường và biến đổi khí hậu. Ảnh chụp năm 2021
Theo số liệu từ Tổ chức WWF -Việt Nam báo cáo đến Bộ Tài nguyên và Môi trường, đại đa số các doanh nghiệp (chiếm 94% doanh nghiệp trả lời phiếu khảo sát) đều đã có nhận thức ban đầu và hiểu biết đầy đủ về trách nhiệm thu hồi, tái chế và xử lý sản phẩm, bao bì thải bỏ sau sử dụng theo quy định của Luật BVMT năm 2020. Đây là điểm thuận lợi chính khi triển khai áp dụng cơ chế EPR theo Điều 54 và 55 của Luật BVMT năm 2020 đối với đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các doanh nghiệp có thể linh hoạt trong việc lựa chọn phương thức thực hiện trách nhiệm thu hồi, tái chế, đó là: (1) Tự tổ chức hoạt động tái chế; (2) Hợp đồng với đơn vị cung cấp dịch vụ tái chế; (3) Ủy quyền cho bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ tái chế hay; (4) đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT Việt Nam.
Khoảng 61% - 68% các doanh nghiệp cho rằng các phương thức (2), (3), (4) là phù hợp, trong khi phương thức (1) ít được lựa chọn hơn. Nguyên nhân là do không phải doanh nghiệp vừa và nhỏ ngành hàng nhựa nào cũng có đủ năng lực để tự tổ chức hoạt động tái chế.
Nhận diện khó khăn
Hơn một nửa số doanh nghiệp khảo sát (18/31 - tương đương 58% tổng số doanh nghiệp được khảo sát) cho rằng, gặp nhiều khó khăn khi thực hiện quy định về EPR Khó khăn cụ thể được doanh nghiệp nhận định khi thực hiện quy định EPR bao gồm: Chưa có hướng dẫn, quy định rõ ràng về trách nhiệm của các đối tượng khác nhau trong việc thực hiện EPR, bao gồm cả nhà phân phối, cửa hàng bán lẻ cũng như người tiêu dùng,…trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, bao bì nhựa.
Doanh nghiệp cần tạo ra sản phẩm thân thiện với môi trường, hạn chế xả thải nhựa ra đại dương
Chưa có hệ thống phân loại, thu gom sản phẩm, bao bì nhựa thải bỏ sau sử dụng, dẫn đến khó khăn trong việc thu hồi các loại chất thải này. Chất thải không được phân loại tại nguồn dẫn đến phế liệu nhựa thu gom trong nước có chất lượng không cao so với phế liệu nhựa nhập khẩu. Một số loại bao bì nhựa thải bỏ có lẫn nhiều tạp chất dẫn đến chi phí xử lý và tái chế cao hơn so với chi phí tái chế nhựa phế liệu nhập khẩu. Một số loại hình sản phẩm không thể sử dụng nhựa tái chế hoặc không thể thay thế bao bì nhựa bằng loại bao bì khác dẫn đến tăng chi phí, tăng giá thành sản phẩm gây khó khăn trong việc tiêu thụ. Một số doanh nghiệp mong muốn lựa chọn hình thức tự tái chế, tuy nhiên cần phải có nguồn lực đầu tư công nghệ, thiết bị, nhân lực, chi phí vận hành trong khi quy trình, thủ tục để triển khai khá phức tạp,...
Dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành Luật BVMT năm 2020 quy định các quy cách tái chế bắt buộc là cứng nhắc, nên để cho các doanh nghiệp tự lựa chọn quy cách tái chế, với điều kiện là doanh nghiệp đáp ứng được các yêu cầu về BVMT.
Hoạt động tái chế phi chính thức tại các làng nghề với công nghệ cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường sẽ gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện cơ chế EPR. Các doanh nghiệp tái chế chính thức gặp nhiều khó khăn trong việc thu hồi sản phẩm, bao bì nhựa phế liệu do phải cạnh tranh với hệ thống thu mua phế liệu phi chính thức. Đồng thời, do thực hiện các yêu cầu về BVMT nên các doanh nghiệp tái chế chính thức cũng thường có chi phí sản xuất cao hơn dẫn đến khó cạnh tranh về giá thành sản phẩm nhựa tái chế.
Về đối tượng thực hiện, đa số doanh nghiệp có các ý kiến chưa thỏa mãn khi phải thực hiện EPR là doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp này có vốn sản xuất thấp, mức độ cạnh tranh cao nên việc tăng thêm bất kỳ một chi phí nào đều có khả năng đẩy doanh nghiệp vào tình thế khó khăn. Quy định về ngưỡng đối tượng thực hiện (doanh thu 30 - 100 tỷ/năm tùy thuộc nhóm sản phẩm, bao bì hoặc lượng nhập khẩu) được hiểu chung là với các doanh nghiệp nhỏ, có doanh thu thấp dưới ngưỡng thì sẽ không phải áp dụng EPR và vì vậy có nhiều doanh nghiệp không thực sự quan tâm.
Tính khả thi và mức độ sẵn sàng của doanh nghiệp trong triển khai EPR
Nhìn chung, các quy định về cơ chế EPR trong Luật BVMT năm 2020 và Dự thảo Nghị định hướng dẫn được đánh giá là có tính khả thi khi phần lớn các doanh nghiệp khảo sát đều đồng ý (tỷ lệ đồng ý từ 52 - 71%) với các nội dung có liên quan đến hệ thống EPR đang được đề xuất.
Tuy nhiên, vẫn còn một số quan ngại về tính khả thi khi triển khai EPR tại các doanh nghiệp,bao gồm: Khó khăn trong xác định tỷ lệ tái chế bắt buộc vì tỷ lệ này phụ thuộc rất nhiều yếu tố, khác nhau đối với từng loại thiết bị, từng loại bao bì, từng loại vật liệu nhựa sản xuất ra bao bì, phụ thuộc vào thị trường tái chế và công nghệ tái chế. Nhà nước nên ban hành các hướng dẫn cụ thể cho các loại ngành hàng nói chung, các nhóm sản phẩm nói riêng về tỷ lệ tái chế bắt buộc. Để đảm bảo tính khả thi của EPR, nhà nước nên xây dựng lộ trình áp dụng tỷ lệ tái chế bắt buộc và tăng dần từng năm cho đến khi đạt được tỷ lệ tái chế cần thiết. Xác định mức đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT Việt Nam trong trường hợp doanh nghiệp lựa chọn phương thức đóng góp tài chính cũng sẽ khó khăn. Do việc tính toán xác định tỷ lệ tái chế bắt buộc còn chưa rõ nên việc tính toán số tiền đóng góp tài chính vào Quỹ BVMT Việt Nam của từng loại sản phẩm, bao bì cũng sẽ gặp nhiều vướng mắc. Về mức độ sẵn sàng tham gia thực hiện EPR, một tỷ lệ tương đối doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nhựa, chiếm 26% số doanh nghiệp được khảo sát, cho biết vẫn cần suy nghĩ thêm. Điều đó cho thấy, việc triển khai thực hiện EPR vẫn còn gặp nhiều quan ngại đối với các doanh nghiệp, đặc biệt nếu như các vấn đề khó khăn và vướng mắc được đề cập và phân tích ở trên không được giải quyết.
Giải pháp và lộ trình để bảo đảm sự tham gia của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Phần lớn các doanh nghiệp đều cho rằng, công thức tính tỷ lệ tái chế, quy cách tái chế theo quy định của dự thảo Nghị định là chưa phù hợp đối với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với tỉ lệ tái chế, cân nhắc áp dụng tỉ lệ % thay
bằng áp dụng công thức tái chế, trong đó, giai đoạn đầu có thể áp dụng tỉ lệ thấp và điều chỉnh này theo thời gian căn cứ vào tình hình thực tế.
Ảnh minh họa
Đảm bảo các điều kiện cho doanh nghiệp tái chế: Nhà nước cần từng bước kiểm soát chặt chẽ hơn, loại bỏ dần các hoạt động tái chế phi chính thức gây ô nhiễm môi trường ở các làng nghề thông qua việc cấp phép môi trường cho các doanh nghiệp đủ điều kiện về hạ tầng BVMT được tham gia tái chế. Qua đó, bảo đảm sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh nghiệp trong việc thu hồi, tái chế sản phẩm, bao bì thải bỏ. Dự thảo Nghị định cũng nên bỏ các quy định về quy cách tái chế, đồng thời, thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư thực hiện tái chế.
Bảo đảm việc áp dụng EPR không tạo nên rào cản cho doanh nghiệp trong việc tăng chi phí sản xuất, giảm cạnh tranh: Kết quả khảo sát cho thấy, nhiều doanh nghiệp lo ngại về mức đóng góp tài chính sẽ làm tăng giá thành sản phẩm và giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và mức đóng góp tài chính đề xuất chưa phù hợp. Nhà nước cần điều tra, khảo sát, đánh giá tác động trước khi ban hành quy định về mức đóng góp tài chính để bảo đảm mức đóng góp phù hợp, giúp doanh nghiệp triển khai đầy đủ nghĩa vụ thực hiện EPR trong thời gian tới.
Xác định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong chuỗi giá trị: Trách nhiệm của doanh nghiệp trong chuỗi giá trị nhựa (doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu, doanh nghiệp tiêu dùng sản phẩm và người sử dụng sản phẩm) cần được xác định rõ nhằm đảm bảo công bằng khi thực hiện trách nhiệm tái chế và xử lý chất thải. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải đầu tư cơ sở hạ tầng và thúc đẩy phân loại chất thải tại nguồn để nâng cao chất lượng của phế liệu nhựa thu hồi từ các sản phẩm, bao bì thải bỏ, qua đó thúc đẩy tái chế.
Phổ biến các quy định về EPR cho doanh nghiệp vừa và nhỏ: Kết quả khảo sát cho thấy, mặc dù các doanh nghiệp nhận thức được trách nhiệm quy định tại Điều 54 và 55 của Luật BVMT 2020 nhưng các quy định cụ thể liên quan đến tỷ lệ tái chế, quy cách tái chế, đóng góp vào Quỹ BVMT Việt Nam,… vẫn chưa được doanh nghiệp nhận thức đầy đủ. Do đó, Bộ TN&MT cần đẩy mạnh thực hiện các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức, phổ biến pháp luật để bảo đảm các quy định về EPR được hiểu đúng và triển khai hiệu quả.
Nhìn chung, phần lớn các doanh nghiệp khảo sát đều đồng ý với việc triển khai EPR. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên EPR được triển khai trên thực tế ở Việt Nam, nên vẫn còn những khó khăn, vướng mắc. Cụ thể, việc xác định tỷ lệ tái chế, mức đóng góp cho việc tái chế, cơ chế giám sát và báo cáo, sự công khai, minh bạch thông tin,… là những hoạt động cần có thời gian để triển khai trên thực tế. Phần lớn các doanh nghiệp (58%) đều xác định sẽ có những khó khăn, quan ngại về việc không đủ nguồn lực để thực hiện, cơ chế hoạt động của Quỹ BVMT về tái chế chưa rõ ràng và đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn đầu cần có lộ trình triển khai phù hợp.
Theo Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT 2020, nhà nước đã đưa ra nhiều cơ chế khuyến khích để thực hiện KTTH, tập trung vào các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển ứng dụng, chuyển giao công nghệ; phát triển các mô hình liên kết, chia sẻ; thị trường tái sử dụng sản phẩm thải bỏ, tái chế chất thải bỏ… Đây chính là cơ hội, bởi những lợi ích hiện hữu mà EPR mang lại cho doanh nghiệp, môi trường và xã hội.
Thành Nam