
Đấu giá, chuyển nhượng và thế chấp quyền khai thác sử dụng tài nguyên nước
17/03/2025TN&MTQuyền khai thác và sử dụng nước là quyền được cấp cho cá nhân hoặc tổ chức để sử dụng tài nguyên nước trong một khu vực nhất định. Trên khía cạnh khoa học, việc khai thác và sử dụng nước phải được đánh giá dựa trên các yếu tố như khả năng tái tạo, tác động của việc sử dụng nước đến môi trường, sức khỏe con người và sự phát triển kinh tế.
Đấu giá quyền khai thác sử dụng tài nguyên nước
Theo khoản 1 Điều 185 Luật Thương mại năm 2005 “Đấu giá hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua trả giá cao nhất”. Như vậy, có thể hiểu đấu giá hàng hóa là một phương thức bán hàng đặc biệt, trong đó, người bán tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai tại một địa điểm và thời gian đã thông báo trước để những người muốn mua đến trả giá. Quyền mua hàng hóa sẽ thuộc về người trả giá cao nhất. Đấu giá hàng hóa là một hành vi pháp lý, do sự khác nhau về chủ thể, mục đích mà đấu giá có thể là một hành vi dân sự thông thường hoặc trở thành một hoạt động thương mại độc lập của thương nhân.
Nhờ việc tổ chức bán đấu giá mà hàng hóa đem bán sẽ đến tay những người mua có tiềm năng và hiểu đúng giá trị của chúng nhất. Bán đấu giá còn tập trung được cung và cầu về các loại hàng hóa vào một thời gian và thời điểm nhất định, giúp cho việc xác lập quan hệ mua bán diễn ra nhanh chóng. Nếu hình thành được những thị trường bán đấu giá chuyên nghiệp thì sẽ là động lực rất tốt để thúc đẩy quan hệ trao đổi thương mại phát triển, nhất là với các quốc gia có những mặt hàng thế mạnh của mình.
Thông thường, thị trường TNN theo cơ chế tập trung thường được vận hành như một hệ thống giao dịch chung và thường sử dụng cơ chế đấu giá kép, theo cách tiếp cận được gọi là “thị trường thông minh”. Trong cơ chế đấu giá kép, người ta đặt giá thầu kín, nhà điều hành thị trường xếp hạng chào bán và chào mua theo giá; các giá thầu sau đó được so khớp để thiết lập giá thanh toán bù trừ, được đặt ở mức cho phép bán khối lượng nước tối đa. Tuy rằng không có ngân hàng nước nào ở Mỹ sử dụng đấu giá kép, nhưng hình thức này đã được thực hiện với mức độ thành công khác nhau ở các thị trường nước của Úc và Trung Quốc.
Ở Việt Nam, căn cứ Điều 4 Luật Đấu giá tài sản 2016, tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá, bao gồm: a) Tài sản nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; b) Tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân theo quy định của pháp luật; c) Tài sản là quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai; d) Tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm; đ) Tài sản thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; e) Tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước, tài sản kê biên để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; g) Tài sản là hàng dự trữ quốc gia theo quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia; h) Tài sản cố định của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; i) Tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản; k) Tài sản hạ tầng đường bộ và quyền thu phí sử dụng tài sản hạ tầng đường bộ theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng và khai thác kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; l) Tài sản là quyền khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về khoáng sản; m) Tài sản là quyền sử dụng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng; n) Tài sản là quyền sử dụng tần số vô tuyến điện theo quy định của pháp luật về tần số vô tuyến điện; o) Tài sản là nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật; p) Tài sản khác mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá.
Theo Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 53, TNN là tài nguyên quan trọng thiết yếu, là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý. TNN cần phải được sử dụng, quản lý một cách bền vững, chia sẻ công bằng và cùng có lợi, phù hợp với luật pháp Việt Nam và cam kết quốc tế. Vì vậy, việc thực hiện đấu giá quyền khai thác TNN là hoàn toàn phù hợp với Hiến pháp và pháp luật về đấu giá ở Việt Nam.
Chuyển nhượng quyền khai thác sử dụng TNN
Xét về bản chất của hoạt động chuyển nhượng, mô hình chuyển nhượng hay nhượng quyền thường có những đặc điểm như sau: Đối tượng nhượng quyền chính là quyền thương mại; Là một phương thức thực hiện hoạt động kinh doanh, theo đó bên nhượng quyền thương mại sẽ cho phép bên nhận quyền sử dụng các yếu tố cụ thể do bên nhượng quyền thương mại phát triển và sở hữu hoặc kiểm soát để bên nhận quyền thực hiện việc kinh doanh. Khi đó, bên nhận quyền sẽ phải chi trả một khoản tiền cho bên nhượng quyền; Là một biện pháp phân phối hàng hóa và dịch vụ: Bên nhượng quyền có quyền cho phép nhiều bên nhận quyền thương mại để xây dựng một hệ thống thực hiện phân phối các mặt hàng hóa và dịch vụ đến người tiêu dùng; Là loại hợp đồng đặc thù về chuyển nhượng.
Thông thường, trên thị trường nước, có hai loại giao dịch chuyển nhượng quyền khai thác sử dụng TNN thường được sử dụng là chuyển nhượng quyền khai thác sử dụng TNN vĩnh viễn hoặc tạm thời, chẳng hạn như ở Úc và Trung Quốc. Trong đó, giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng nước tạm thời là loại phổ biến hơn cả, ví dụ như hợp đồng thuê quyền khai thác, sử dụng nước cho một mùa hoặc một năm. Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng nước vĩnh viễn bao gồm việc bán hoặc chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ quyền sử dụng nước. Cả hai loại hình thương mại đều yêu cầu hệ thống giao dịch, trong đó các yếu tố kinh tế và lý sinh phải được xem xét một cách kỹ càng.
Hiện nay việc chuyển nhượng quyền khai thác TNN ở Việt Nam đã được quy định tại khoản 4 Điều 43 trong Luật TNN, theo đó, “Tổ chức, cá nhân khai thác TNN thuộc trường hợp phải nộp tiền cấp quyền khai thác TNN theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Luật này còn được chuyển nhượng quyền khai thác TNN theo quy định của Chính phủ”. Các đối tượng được quyền chuyển nhượng quyền khai thác TNN theo khoản 1 Điều 65 là các trường hợp: a) Khai thác nước để phát điện có mục đích thương mại; b) Khai thác nước để phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ, sản xuất phi nông nghiệp; c) Khai thác nước dưới đất để trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản tập trung với quy mô lớn.
Việc chuyển nhượng quyền khai thác TNN được hướng dẫn bởi Điều 39 Nghị định 201/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 01/02/2014 và được thay thế bằng Nghị định 02/2023/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 20/3/2023. Mặc dù, các quy định pháp luật cho chuyển nhượng quyền khai thác TNN ở Việt Nam đã có, tuy nhiên trên thực tế việc chuyển nhượng quyền khai thác TNN lại không xảy ra theo đúng bản chất của nó vì quyền chuyển nhượng quyền khai thác TNN chỉ áp dụng cho các đối tượng phải nộp tiền cấp quyền khai thác TNN theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Luật TNN 2012. Tuy nhiên quyền khai thác TNN trong các trường hợp này thường gắn liền với các công trình, khu vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ; và các công trình, đối tượng kinh doanh này lại chỉ phát sinh nhu cầu chuyển nhượng quyền khai thác TNN khi phát sinh nhu cầu chuyển nhượng dự án. Quyền khai thác TNN trong trường hợp này lại được đính kèm như một loại tài sản khi chuyển nhượng dự án, vì vậy chỉ phát sinh nhu cầu về chuyển tên trên giấy phép khai thác TNN.
Một lý do có thể được nhìn nhận đối với thực trạng trên là do việc ghi nhận quyền tài sản đối quyền khai thác sử dụng TNN của các cá nhân, tổ chức trong Luật TNN hiện còn chưa đậm nét. Trong pháp luật về TNN mới chỉ quy định tổ chức, cá nhân khai thác TNN thuộc trường hợp phải nộp tiền cấp quyền khai thác TNN còn được chuyển nhượng quyền khai thác TNN theo quy định của Chính phủ. Quy định này hạn chế rất nhiều quyền tài sản của tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng TNN hợp pháp, giảm khả năng phân bổ và tận dụng các nguồn lực để sản xuất kinh doanh.
Thế chấp quyền khai thác sử dụng TNN
Mặc dù thế chấp quyền tài sản không phải là một biện pháp bảo đảm mới ở Việt Nam, song trong thực tế, không ít ngân hàng thương mại còn lúng túng khi xác lập các hợp đồng bảo đảm đối với loại tài sản này. Không chỉ các ngân hàng thương mại mà với nhiều nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các ngân hàng hải ngoại (overseas banks), cũng không phải đơn giản khi xác định được nhận thế chấp loại quyền tài sản nào từ doanh nghiệp hay tổ chức tín dụng Việt Nam là bên vay vốn và đưa ra các điều khoản phù hợp nhất để bảo vệ quyền lợi của mình cho phù hợp với pháp luật Việt Nam hiện hành.
Bộ luật Dân sự và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm ngày 29/12/2006 không đưa ra một câu trả lời mang tính nguyên tắc cho vấn đề này, mà chỉ có quy định đối với một số quyền tài sản cụ thể. Đó là việc thế chấp quyền đòi nợ và thế chấp quyền sử dụng đất. So với cầm cố, thế chấp là biện pháp bảo đảm phù hợp hơn với các quyền tài sản.
Thứ nhất, quyền tài sản nói chung là các tài sản vô hình, không tồn tại dưới dạng hữu hình, không nhìn thấy, cầm nắm được, và do đó, không thể đặt ra vấn đề chuyển giao hay không chuyển giao. Điều đó có nghĩa là quyền tài sản không thể chuyển giao về mặt vật chất nên không thể là đối tượng của cầm cố.
Thứ hai, trong giao dịch bảo đảm có đối tượng là quyền tài sản, bên thế chấp thường chỉ giao giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của bên thế chấp đối với tài sản cho bên nhận thế chấp và trong quá trình thế chấp, bên thế chấp vẫn nắm giữ, khai thác tài sản thế chấp (chẳng hạn như văn bằng sáng chế, nhãn hiệu) hay thực hiện một số quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thế chấp (chẳng hạn như phần vốn góp). Ðối với một số quyền tài sản khác như quyền đòi nợ, tài sản thế chấp là khoản tiền đang nằm ở trong tay người thứ ba là người có nghĩa vụ trả nợ.
Thứ ba, theo tinh thần của Bộ luật Dân sự, có thể thế chấp cả bất động sản lẫn động sản. Trong thực tế, các ngân hàng và các doanh nghiệp cũng thường sử dụng hợp đồng thế chấp đối với các quyền tài sản.
Mọi quyền tài sản đều khác nhau, nhưng lợi ích bảo đảm về quyền khai thác và sử dụng nước thường được tạo ra và hoàn thiện theo cách thức tương tự như quyền thế chấp đất. Giả định rằng quyền về nước được chuyển giao cùng với quyền sở hữu đối với bất động sản cơ bản dưới bất kỳ hình thức chuyển tải nào. Tuy nhiên, người bán có thể cắt các quyền về nước khỏi tài sản cơ bản bằng cách đặt trước, chuyển nhượng hoặc chuyển giao nhanh chóng cho một bên thứ ba. Nguyên tắc phân chia tương tự này cho phép người cho vay phân chia quyền sở hữu đất và nước một cách riêng biệt. Người cho vay có thể linh hoạt hơn khi thực hiện một khoản vay bằng cách chấp nhận tài sản thế chấp bổ sung. Do đó, quyền thế chấp khai thác, sử dụng TNN có thể chấp nhận như thế chấp quyền sử dụng đất được quy định tại Bộ luật Dân sự và Nghị định số 163.
THÂN VĂN ĐÓN
Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 3 năm 2025