Đầu tư đồng bộ mạng lưới trạm khí tượng thủy văn bảo đảm thống nhất, xuyên suốt

11/08/2023

TN&MTMột trận bão, lũ có thể phá vỡ mọi kế hoạch phát triển, vì vậy, đầu tư cho phát triển hệ thống mạng lưới, phát triển ngành Khí tượng Thủy văn là đầu tư cho sự ổn định và phát triển đất nước; bảo đảm tính chủ động, bền vững trong thực hiện phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Đầu tư đồng bộ mạng lưới trạm khí tượng thủy văn bảo đảm thống nhất, xuyên suốt

Phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia hiện đại, đồng bộ

Theo báo cáo đánh giá của Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai trong cho thấy, công tác dự báo cảnh báo đã thực hiện dự báo thời tiết, thuỷ văn chi tiết đến các huyện, thị xã trên cả nước; cung cấp kịp thời các bản tin dự báo KTTV, cảnh báo về các hiện tượng thời tiết nguy hiểm phục vụ công tác chỉ đạo phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai và chủ động kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Ngoài hệ thống mạng lưới trạm quan trắc cơ bản trong hệ thống trạm KTTV quốc gia do Tổng cục KTTV quản lý, vận hành, các địa phương, bộ, ngành đã tổ chức lắp đặt bổ sung các trạm đo mưa tự động, trạm quan trắc chuyên ngành phục vụ thiết thực cho công tác dự báo, cảnh báo thiên tai (tổng số trạm chuyên dùng đến tháng 3/2023 là 2.466 trạm).

Hiện nay, BĐKH có diễn biến khó lường, các hiện tượng thời tiết, thủy văn, hải văn cực đoan có xu hướng ngày càng gia tăng về cường độ và tần suất lặp lại. Vấn đề lũ quét, sạt lở đất ở khu vực miền núi; khoảng trống số liệu KTTV ở Biển Đông, đặc biệt ở khu vực vùng biển và ven biển Tây Nam của đất nước, cùng các yêu cầu về hợp tác quốc tế, các hoạt động phát triển KT-XH của đất nước trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ 4.0 đã và đang đặt ra thách thức đối với công tác KTTV trong giai đoạn tới. Trong khi đó, mạng lưới quan trắc KTTV nhìn chung vẫn còn thưa, đặc biệt trên biển. Trên biển mật độ trạm quá thưa, cả khu vực Biển Đông chỉ có khoảng 10 trạm khí tượng trên đảo, thiết bị đo phục vụ cho quan trắc chủ yếu vẫn là thủ công, thiết bị quan trắc tự động chưa được trang bị nhiều, do đó chưa đáp ứng yêu cầu của công tác dự báo đòi hỏi ngày càng cao và chính xác. Trong điều kiện thiết bị tự động đặt ngoài trời, hoạt động liên tục 24/24h trong mọi điều kiện thời tiết, việc duy trì hoạt động thường xuyên của các trạm, đặc biệt là kịp thời khắc phục, sửa chữa, thay thế linh kiện khi hư hỏng trong bối cảnh cơ sở vật chất và trang thiết bị chuyên môn còn thiếu, đã cũ, thời gian sử dụng dài, do đó hay bị hư hỏng và xuống cấp, rất khó khăn trong công tác đảm bảo duy trì hoạt động ổn định, liên tục và chính xác cho các chuyên môn nghiệp vụ.

Chủ trì phiên họp của Hội đồng thẩm định Quy hoạch mạng lưới trạm KTTV quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch) tháng 6 vừa qua, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà cho biết, yêu cầu đặt ra đối với Quy hoạch là phải bảo đảm sự thống nhất, xuyên suốt từ trung ương tới địa phương, từ đất liền ra biển đảo, có tính toàn cầu. Ngành KTTV có mối quan hệ chặt chẽ đối với hoạt động dự báo, giám sát, cung cấp các dịch vụ thông tin, dữ liệu cho các hoạt động KT-XH, QP-AN, ứng phó BĐKH, tham gia quản lý các nguồn tài nguyên (gió, nước, năng lượng mặt trời,…).Trong bối cảnh yêu cầu nhiệm vụ, tính cấp bách cao hơn, sự phát triển khoa học công nghệ nhanh hơn, Quy hoạch cần xác định thay đổi những gì để đột phá bằng công nghệ, chuyển đổi số nhằm phát triển ngành KTTV cả về số lượng lẫn chất lượng.

Theo báo cáo của Tổng cục KTTV, mục tiêu của Quy hoạch là phát triển mạng lưới trạm KTTV quốc gia hiện đại, đồng bộ, đạt trình độ ngang bằng với các nước phát triển trong khu vực châu Á vào năm 2030. Các trạm này có khả năng lồng ghép, tích hợp, kết nối, chia sẻ với mạng lưới quan trắc TN&MT quốc gia và mạng lưới trạm KTTV toàn cầu, đáp ứng nhu cầu thông tin, dữ liệu và nâng cao độ chính xác, tính kịp thời và độ tin cậy cho công tác dự báo, cảnh báo.

Trong giai đoạn 2021-2025, mạng lưới trạm khí tượng được phát triển mới, nâng cấp, hiện đại hóa và bổ sung yếu tố tăng dày mật độ trạm, đặc biệt là các khu vực thường xuyên xảy ra thiên tai KTTV, vùng trống số liệu, vùng chịu tác động lớn của BĐKH, quan trắc để khu vực ven biển, đảo, quần đảo thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam. Tỷ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới trạm đạt trên 40% đối với trạm khí tượng bề mặt; 50% đối với trạm quan trắc mực nước; 100% đối với các trạm đo mưa độc lập; 20% đối với các trạm đo lưu lượng nước; chuyển sang tự động hoàn toàn 20% số trạm KTTV thủ công hiện có.

 Giai đoạn 2026-2030, tỷ lệ tự động hóa trên toàn mạng lưới đạt trên 95% đối với các trạm: Khí tượng, đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao, tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng; chuyển sang tự động hoàn toàn 30% số trạm KTTV thủ công hiện có. Đến năm 2050, mật độ, khoảng cách trạm quan trắc tự động KTTV ở Việt Nam sẽ ngang bằng với các nước phát triển trên thế giới; đưa vào thử nghiệm trên mạng lưới trạm KTTV quốc gia một số loại hình quan trắc mới. Việc xây dựng Quy hoạch theo yếu tố quan trắc hướng tới mô hình mạng lưới trạm hiện đại, đồng bộ, có mật độ quan trắc hợp lý và công nghệ quan trắc tiên tiến, mức độ tự động hóa cao.

Làm chủ công nghệ quan trắc, bảo đảm tương thích, thống nhất

Cũng tại phiên họp của Hội đồng thẩm định Quy hoạch, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã đánh giá, Quy hoạch đưa ra được những thông tin quan trọng về đòi hỏi, yêu cầu ngày càng cao trước tình trạng BĐKH, thời tiết cực đoan ngày càng khó lường, khó dự báo; nhu cầu phát triển KT-XH, bảo đảm AN-QP. Tuy nhiên, Bộ TN&MT cần tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung, bám sát các căn cứ chính trị, pháp lý, quy định của Luật Quy hoạch, các quy hoạch chuyên ngành khác,… cũng như các xu thế lớn về thích ứng với BĐKH, tăng trưởng xanh, kinh tế xanh. Đây không chỉ là quy hoạch một ngành khoa học đơn thuần mà có liên quan chặt chẽ đến kinh tế, chính trị, quốc phòng và mang tính toàn cầu. Các mục tiêu, nhiệm vụ của Quy hoạch phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn. Để thực hiện được nhiệm vụ dự báo từ sớm, từ xa các hiện tượng thời tiết cực đoan và sự cố, rủi ro có thể, rất cần thiết các hoạt động hợp tác quốc tế trong thu thập, chia sẻ dữ liệu KTTV. Thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cơ hội để hiện đại hoá ngành KTTV, nhất là các trạm quan trắc trên biển; ứng dụng chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong xây dựng, vận hành, khai thác cơ sở dữ liệu về KTTV. Trong tổ chức thực hiện Quy hoạch cần có cơ chế tài chính kết hợp nguồn lực Nhà nước và xã hội; xem xét đầu tư, khai thác, sử dụng, hiệu quả nguồn lực Nhà nước dành cho KTTV...; từng bước tự chủ trong sản xuất trang thiết bị, máy móc, làm chủ công nghệ quan trắc, bảo đảm tương thích, thống nhất trong cả hệ thống.

Chiến lược phát triển Ngành KTTV giai đoạn mới, giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 có mục tiêu chung đến năm 2030 phát triển Ngành KTTV của Việt Nam đạt trình độ khoa học công nghệ tiên tiến của khu vực châu Á; đủ năng lực cung cấp thông tin, dữ liệu KTTV đầy đủ, tin cậy, kịp thời đáp ứng các yêu cầu phát triển KT-XH, phòng chống thiên tai, thích ứng với BĐKH, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia; hình thành và phát triển được thị trường dịch vụ, công nghệ KTTV phục vụ đa mục tiêu, đa lĩnh vực. Đến năm 2045 phát triển Ngành KTTV của Việt Nam có trình độ, năng lực tương đương các nước phát triển trên thế giới. Trong đó, mục tiêu cụ thể đến năm 2030 về quan trắc KTTV sẽ tự động hóa đạt trên 95% đối với các trạm khí tượng, trạm đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao, tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng; bổ sung ra đa thời tiết cho các khu vực trên đất liền, khu vực biên giới, các đảo và quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam; phát triển mạng lưới trạm khí tượng hải văn tự động, ưu tiên khu vực biển ven bờ Vũng Tàu - Cà Mau - Hà Tiên; phát triển một số trạm hải văn dạng phao trên các vùng biển ngoài khơi. Lồng ghép hệ thống quan trắc môi trường không khí, nước mặt, đo mặn vào hệ thống trạm KTTV quốc gia; ứng dụng các công nghệ quan trắc mới, hiện đại phục vụ quan trắc KTTV và giám sát BĐKH. Phát triển, hoàn thiện mạng lưới trạm KTTV phục vụ nhu cầu của bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực có liên quan; 100% công trình phải quan trắc KTTV được thực hiện quan trắc và cung cấp thông tin, dữ liệu KTTV theo quy định của pháp luật. Hoàn thiện các quy trình vận hành chuẩn (SOPs) quản lý hệ thống trạm KTTV quốc gia; xây dựng hệ thống kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo KTTV hiện đại; kiểm định, hiệu chuẩn 100% phương tiện đo tại các trạm KTTV của quốc gia và của bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân; xây dựng, vận hành một số mô hình quản lý trạm KTTV hiện đại tự động hóa, giảm thiểu trạm đo thủ công.

MAI HOÀNG

Tổng cục Khí tượng Thủy văn

Trích: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 13 (Kỳ 1 tháng 7) năm 2023

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Việt Nam và Liên Hợp Quốc tăng cường hợp tác nâng cao năng lực phòng chống thiên tai

Tích cực chuẩn bị tổ chức Đại hội Thi đua yêu nước ngành Nông nghiệp và Môi trường lần thứ I

Việt Nam - Ai Cập củng cố cơ chế hợp tác thương mại nông sản: Cơ hội mới cho gạo Việt Nam

Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng tiếp Giám đốc quốc gia Ngân hàng thế giới

Nông nghiệp

Lạng Sơn: Hoàn thành xóa 100% nhà tạm, dột nát cho hơn 6.500 hộ dân

Ninh Bình: Trồng “Quốc hoa” quảng bá, phát triển du lịch nông nghiệp

Hoàn thiện Hồ sơ Đề án đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Hà Nội hoàn thành xây dựng nông thôn mới, đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất

Tài nguyên

Gỡ "nút thắt" trong chuyển mục đích sử dụng đất - Cần bảo đảm công bằng, ổn định xã hội

Chính phủ tháo gỡ vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian chờ điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất quốc gia

Nghệ An: Nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện chi trả ERPA

Kỳ 2: Góc nhìn đa chiều về Luật Địa chất và Khoáng sản 2024: Doanh nghiệp, truyền thông và những vấn đề của thực tiễn

Môi trường

Bài 2: Giải pháp giảm phát thải mê-tan trong nông nghiệp và quản lý chất thải

Bài 1: Cam kết toàn cầu và lộ trình giảm phát thải mê-tan của Việt Nam

Công tác bảo vệ môi trường đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng

Trung tâm SOS đảm nhiệm trực ứng phó sự cố môi trường cho chiến hạm HMS Richmond tại TP. Hồ Chí Minh

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Kỳ 2: Từ phòng thí nghiệm tới doanh nghiệp - những công nghệ mới giúp nông sản Việt vươn xa

Học sinh Chu Văn An sáng chế máy gieo hạt tự động, kiến tạo nông nghiệp tương lai

Khai mạc Hội nghị Khoa học công nghệ bảo quản, chế biến nông lâm thuỷ sản và cơ giới hoá nông nghiệp toàn quốc năm 2025

ThS. Lưu Hải Âu: Vượt khó, đổi mới sáng tạo và khát vọng phát triển hệ sinh thái không người lái bầy đàn (Kỳ 2)

Chính sách

Phê duyệt Cơ chế điều phối liên ngành về phát triển bền vững kinh tế biển

Kéo dài thời gian Triển lãm thành tựu Đất nước đến hết ngày 15/9/2025

Nghiên cứu, đề xuất giải pháp áp dụng hệ số điều chỉnh giá đất phù hợp trong thu tiền sử dụng đất

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tập trung ứng phó bão số 6

Phát triển

Vẻ đẹp huyền thoại của vườn chè Shan tuyết cổ thụ Suối Giàng

Thủ tướng Chính phủ dự lễ khánh thành cầu Phong Châu mới

Bước ngoặt 2 cấp trong tái cấu trúc chính quyền - Bài 3: Hành chính công - Giảm tầng nấc, tăng phục vụ

Đại học Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh trao bằng cho hơn 900 tân Thạc sĩ, Kỹ sư, Cử nhân tại cơ sở mới Hiệp Phước

Diễn đàn

Lào Cai: Mưa lớn khiến 1 người mất tích và thiệt hại ước tính 15 tỷ đồng

Huy động mọi nguồn lực ứng phó với các nguy cơ sau bão số 10

Bão số 10 gây thiệt hại nặng tại Thanh Hóa

Thiệt hại nặng nề sau bão số 10 Hà Tĩnh lên phương án khắc phục