
Giải pháp xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam: Thực trạng và hướng đi
17/07/2025TN&MTXử lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, từ công nghệ chưa tối ưu đến chính sách thu hút đầu tư chưa đồng bộ. Trong cuộc phỏng vấn với TS. Nguyễn Đình Trọng, chuyên gia về công nghệ môi trường, ông chia sẻ những đánh giá sâu sắc về thực trạng hiện nay, những khó khăn trong phát triển công nghệ trong nước và đề xuất các giải pháp cụ thể để thúc đẩy xử lý rác thải hiệu quả, bền vững, phù hợp với đặc thù Việt Nam.
Pv: Thưa TS. Nguyễn Đình Trọng, ông đánh giá như thế nào về thực trạng công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam hiện nay?
TS. Nguyễn Đình Trọng: Công tác xử lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại Việt Nam đã nhận được sự quan tâm đáng kể từ Chính phủ và các cơ quan trung ương. Trong những năm gần đây, đã có những chuyển biến tích cực, nhưng các giải pháp hiện tại vẫn chưa thực sự tối ưu để triển khai trên quy mô toàn quốc.
Hiện nay, hai phương pháp xử lý CTRSH chủ đạo tại Việt Nam là chôn lấp và đốt. Trước đây, chôn lấp chiếm tỷ lệ lớn, nhưng phương pháp này không đảm bảo vệ sinh môi trường và đang bị hạn chế bởi các chính sách mới. Nhà nước đã ban hành chủ trương gần như cấm chôn lấp không hợp vệ sinh, chuyển hướng sang các giải pháp bền vững hơn. Trong khi đó, công nghệ đốt rác, đặc biệt với các lò đốt quy mô nhỏ dưới 500 kg/giờ, thường gặp khó khăn trong quản trị công nghệ và quy trình vận hành, dẫn đến chất lượng không ổn định. Nhiều mô hình lò đốt nhỏ đã không đạt hiệu quả như mong đợi và dần bị loại bỏ.
TS. Nguyễn Đình Trọng (phải) chia sẻ với Thủ tướng Phạm Minh Chính và Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà về mô hình lò đốt rác phát điện "Made in VietNam" tại Hội nghị Môi trường lần thứ V
Với sự thay đổi về quy mô hành chính, các xã mới, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa hoặc nông thôn, với dân số từ 100.000 đến 300.000 người, đang có quyền tự chủ tương đương một huyện nhỏ. Những địa phương này cần khả năng xử lý rác thải độc lập để đạt hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư cho các dự án xử lý rác quy mô nhỏ thường không hấp dẫn các nhà đầu tư do lợi nhuận kinh tế thấp.
Nếu sử dụng vốn ngân sách, các địa phương có thể giải quyết một số vấn đề quan trọng. Thứ nhất, đáp ứng nhanh chóng yêu cầu bảo vệ môi trường. Thứ hai, thúc đẩy chi tiêu công, góp phần vào tăng trưởng GDP thông qua các hoạt động sản xuất và đầu tư công. Hơn nữa, chính quyền địa phương có thể chủ động lựa chọn công nghệ và vận hành sau khi đầu tư. Với các dự án sử dụng vốn ngân sách, chỉ cần diện tích nhỏ, khoảng 1 ha hoặc 5.000 m², là đủ để xây dựng một trạm xử lý rác. Khi nhu cầu tăng, địa phương có thể mở rộng dần, thay vì phải dành quỹ đất lớn cho các dự án dài hạn (20-50 năm) như yêu cầu của một số nhà đầu tư tư nhân.
Trong quá khứ, Việt Nam đã nhập khẩu công nghệ lò đốt rác từ nước ngoài, nhưng nhiều công nghệ không phù hợp với đặc thù rác thải Việt Nam, dẫn đến hiệu quả thấp và chi phí cao. Rác thải Việt Nam thường hỗn hợp, chưa được phân loại tại nguồn, trong khi các công nghệ nước ngoài thường yêu cầu rác đã phân loại. Chi phí đầu tư cao và đơn giá xử lý thấp càng làm gia tăng khó khăn. Các bài học kinh nghiệm từ những dự án này cho thấy cần ưu tiên các giải pháp phù hợp với điều kiện trong nước, đặc biệt cho các xã nông thôn mới. Đối với các đô thị lớn, nhiều dự án sử dụng công nghệ nước ngoài thông qua các chương trình ODA cũng không đạt hiệu quả như kỳ vọng.
Tôi khuyến nghị các địa phương cân nhắc các công nghệ phù hợp với đặc thù rác thải Việt Nam, đảm bảo vận hành liên tục và ổn định. Công nghệ xử lý rác đòi hỏi độ tin cậy gần như tuyệt đối, bởi chỉ cần 5% rác tồn đọng mỗi ngày, sau 100 ngày sẽ tích lũy thành vấn đề nghiêm trọng. Phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài có thể dẫn đến khó khăn trong sửa chữa hoặc bảo trì, làm tăng nguy cơ thất bại. Các nhà đầu tư chỉ tập trung vào tài chính mà không làm chủ công nghệ hoặc không có đội ngũ hỗ trợ kỹ thuật tại chỗ cũng khó đảm bảo thành công. Tính chủ động công nghệ tại chỗ là yếu tố then chốt để đảm bảo hiệu quả lâu dài.
PV: Là một nhà phát triển công nghệ, ông cho rằng khó khăn hiện nay trong việc phát triển công nghệ tại Việt Nam là gì?
TS. Nguyễn Đình Trọng: Phát triển công nghệ tại Việt Nam, không chỉ trong lĩnh vực môi trường mà còn ở nhiều ngành khác, đang đối mặt với nhiều thách thức đáng kể.
Thứ nhất, Việt Nam là một thị trường mới nổi, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển mạnh, gây khó khăn cho các doanh nghiệp công nghệ trong việc sản xuất và triển khai giải pháp. So với các quốc gia phát triển, Việt Nam thiếu hệ sinh thái hỗ trợ công nghệ toàn diện, từ nguyên vật liệu, linh kiện, đến các dịch vụ kỹ thuật chuyên sâu. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tự lực trong nhiều khâu, làm tăng chi phí và thời gian phát triển.
Thứ hai, về chính sách, dù nhà nước đã quan tâm và thiết lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, quy trình giải ngân vốn cho nghiên cứu khoa học công nghệ còn phức tạp và thận trọng quá mức. Tâm lý "sợ sai" trong các cơ quan quản lý dẫn đến việc giải ngân bị chậm trễ hoặc rườm rà. Các thủ tục pháp lý tiêu tốn nhiều thời gian, khiến các nhà khoa học bị phân tâm, không thể tập trung vào nghiên cứu và phát triển. Gần đây, các nghị quyết như Nghị quyết 57 đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Trung ương và Bộ Chính trị đến phát triển khoa học công nghệ. Tuy nhiên, để đưa các nghị quyết này vào thực tiễn, cần mạnh dạn đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện cho các nhà khoa học tập trung vào nghiên cứu. Nhà nước cần đồng hành với các nhà khoa học trong những lĩnh vực mạo hiểm, tạo môi trường an toàn để họ dám đầu tư vào nghiên cứu mà không lo rủi ro hoặc thiếu hỗ trợ.
TS. Nguyễn Đình Trọng trình bày tham luận với tiêu đề “Phát triển công nghệ xử lý CTRSH của Việt Nam” tại Diễn đàn môi trường năm 2023 với chủ đề “Giải pháp xử lý CTRSH thành tài nguyên” do Tạp chí Tài nguyên và Môi trường (nay là Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức ngày 09/06/2023
Trong hơn hai thập kỷ phát triển công nghệ, nhiều doanh nghiệp trong nước đã tạo ra các sản phẩm hữu hình, từ thiết bị đo lường đến các giải pháp xử lý rác phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này thường chưa nhận được hỗ trợ tài chính đáng kể từ các chương trình khoa học công nghệ của nhà nước, dẫn đến khó khăn trong việc mở rộng quy mô. Phát triển khoa học công nghệ là yếu tố cốt lõi để nâng tầm quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số và đổi mới công nghệ. Các điểm sáng công nghệ trong nước cần được hỗ trợ kịp thời về chính sách, tài chính và cơ chế để lan tỏa giá trị, đặc biệt trong các dự án lớn như xử lý rác thải công suất cao, mang lại giải pháp đồng bộ và bền vững.
PV: Theo ông, nhà nước cần có những chính sách cụ thể như thế nào để thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ trong nước, tương đương với các nước tiên tiến?
TS. Nguyễn Đình Trọng: Công nghệ nước ngoài có nhiều điểm mạnh, nhưng không phải lúc nào cũng phù hợp với Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực xử lý CTRSH. Rác thải Việt Nam mang đặc thù hỗn hợp, chịu ảnh hưởng từ khí hậu và thói quen sinh hoạt, khiến nhiều công nghệ nước ngoài khó áp dụng hiệu quả. Người Việt Nam hoàn toàn có khả năng sáng tạo các giải pháp phù hợp hơn, với tính ứng dụng cao.
Để thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ trong nước, nhà nước cần triển khai các chính sách cụ thể như sau:
Một là, phát hiện và hỗ trợ các điểm sáng công nghệ: Thành lập một cơ quan chuyên trách hoặc tổ chuyên gia để phát hiện và hỗ trợ các cá nhân, doanh nghiệp có sản phẩm công nghệ hữu hình và giá trị. Hỗ trợ có thể bao gồm tài chính, cơ chế quản lý, hoặc tư vấn để phát triển bền vững, giúp các doanh nghiệp mở rộng quy mô và ứng dụng thực tiễn.
Hai là, đồng bộ hóa các khâu phát triển: Phát triển công nghệ xử lý rác thải đòi hỏi sự kết hợp giữa nghiên cứu, tài chính, quản trị, nhân lực và thi công. Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghiệp phụ trợ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng để giảm thiểu rủi ro và tạo điều kiện phát triển bền vững.
Ba là, đơn giản hóa thủ tục và khuyến khích đầu tư mạo hiểm: Quy trình giải ngân vốn cần được đơn giản hóa, giảm bớt thủ tục hành chính để các nhà khoa học tập trung vào nghiên cứu. Nhà nước nên thiết lập các quỹ đầu tư mạo hiểm do nhà nước bảo trợ, đồng hành với doanh nghiệp trong các dự án rủi ro cao, thay vì để họ tự chịu rủi ro.
Bốn là, ưu tiên giải pháp nội địa: Thay vì phụ thuộc vào công nghệ hoặc nhà đầu tư nước ngoài, nhà nước nên ưu tiên các giải pháp trong nước để tránh rủi ro về an ninh quốc gia và khuyến khích sự phát triển của các điểm sáng công nghệ nội địa. Các hội thảo khoa học, triển lãm công nghệ cần được tổ chức thường xuyên để kết nối doanh nghiệp công nghệ Việt Nam với các cơ quan quản lý.
PV: Là một nhà phát triển công nghệ, ông có khuyến cáo gì đối với các địa phương trong việc lựa chọn công nghệ và giải pháp xử lý rác thải rắn sinh hoạt?
TS. Nguyễn Đình Trọng: Để xử lý CTRSH hiệu quả, các địa phương cần thực hiện ba bước chính:
Thứ nhất, quy hoạch chuẩn xác: Mỗi địa phương cần xây dựng bản đồ quy hoạch các điểm xử lý rác thải. Với các thành phố lớn như Hà Nội hay TP. Hồ Chí Minh, thay vì tập trung vào một vài điểm xử lý lớn, nên phân tán thành 5-7 trạm xử lý xung quanh để giảm chi phí vận chuyển và xử lý. Quy hoạch cần được thực hiện cẩn thận, tránh tình trạng lựa chọn không thành công như một số địa phương đã gặp phải.
Thứ hai, lựa chọn công nghệ và nhà đầu tư phù hợp: Với các xã hoặc huyện nhỏ, nên triển khai các trạm xử lý rác thải quy mô vừa, kết hợp phân loại và tái chế trước khi đốt để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Với các trung tâm tỉnh, cần xây dựng các khu liên hợp xử lý chất thải để xử lý đồng bộ rác sinh hoạt, xà bần, bùn thải,… Khi lựa chọn công nghệ, cần ưu tiên các giải pháp phù hợp với đặc thù rác thải Việt Nam, chẳng hạn các công nghệ tận dụng nhiệt từ rác để đốt, giảm chi phí và khí thải.
Thứ ba, đồng hành giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân: Sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, nhà đầu tư và cộng đồng là yếu tố then chốt. Các dự án cần tránh tình trạng thiếu sự đồng thuận từ người dân. Khi lựa chọn nhà đầu tư, các địa phương cần tổ chức hội đồng khoa học để thẩm định công nghệ và năng lực thực tế, thay vì chỉ dựa trên hồ sơ giấy tờ. Nhà đầu tư chỉ có tài chính mà thiếu kinh nghiệm vận hành hoặc công nghệ phù hợp sẽ khó đảm bảo thành công. Quy trình đấu thầu cần được thiết kế đặc thù, với người đứng đầu chịu trách nhiệm, để giảm thiểu rủi ro chọn sai nhà đầu tư.
Tôi khuyến nghị các địa phương ưu tiên các giải pháp phù hợp với đặc thù rác thải Việt Nam, với chi phí hợp lý và khả năng tự chủ cao. Các công nghệ tận dụng tối đa nhiệt từ rác, không phụ thuộc vào năng lượng bên ngoài, có thể mang lại hiệu quả cao và bền vững. Nếu sử dụng công nghệ nước ngoài, cần đảm bảo giải mã được công nghệ và không phụ thuộc vào yếu tố ngoại lai để tránh rủi ro.
PV: Theo ông, đâu là những bất cập trong thu hút đầu tư để xử lý CTRSH hiện nay?
TS. Nguyễn Đình Trọng: Có một số bất cập đáng chú ý trong việc thu hút đầu tư để xử lý CTRSH.
Đầu tiên, rác thải tại Việt Nam chưa được phân loại tại nguồn, gây khó khăn lớn cho quá trình xử lý. Điều này làm giảm hiệu quả của nhiều công nghệ, đặc biệt là các công nghệ nước ngoài vốn được thiết kế cho rác đã phân loại.
Thứ hai, các chính sách thu hút đầu tư hiện nay chưa thực sự công bằng. Nhiều dự án sử dụng công nghệ nước ngoài, thông qua các nguồn vốn ODA hoặc đầu tư trực tiếp, được cam kết giá xử lý tính bằng USD và đảm bảo lượng rác tối thiểu. Trong khi đó, các nhà đầu tư trong nước thường không nhận được những cam kết tương tự về lượng rác tối thiểu hay đơn giá ổn định, dẫn đến rủi ro tài chính cao và khiến họ e dè trong việc đầu tư.
TS. Nguyễn Đình Trọng trả lời phóng vấn phóng viên Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường
Để khắc phục, cần điều chỉnh chính sách để đảm bảo công bằng giữa nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhà nước cần cam kết hỗ trợ về lượng rác tối thiểu và đơn giá ổn định cho các doanh nghiệp nội địa, từ đó khuyến khích đầu tư và biến CTRSH thành tài nguyên. Điều này không chỉ giúp giải quyết vấn đề rác thải mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế và công nghệ trong nước.
Xử lý CTRSH tại Việt Nam đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách, công nghệ và sự đồng hành của các bên liên quan. Các giải pháp phù hợp với đặc thù trong nước, với khả năng tự chủ và tính bền vững cao, là hướng đi tối ưu để giải quyết bài toán rác thải. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn, đơn giản hóa thủ tục, và ưu tiên các điểm sáng công nghệ nội địa để thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, từ đó nâng cao vị thế quốc gia trong bối cảnh chuyển đổi số và đổi mới công nghệ.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Đỗ Hùng (thực hiện)
>>>>> Xin vui lòng xem thêm:
- TS. Nguyễn Đình Trọng: Công nghệ Việt xử lý hiệu quả “Rác thải Việt”;
- TS. Nguyễn Đình Trọng: Người kiến tạo công nghệ xử lý rác thải “Made in Việt Nam”.