
Khơi thông các nguồn lực để hiện thực hóa kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
26/03/2025TN&MTTrong bối cảnh kinh tế toàn cầu chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình xanh và bền vững, kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang trở thành xu thế tất yếu của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Với những bước đi chiến lược như Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, và các Chương trình, Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn cũng như các chính sách hỗ trợ, Việt Nam đã tạo nền móng cho kinh tế tuần hoàn phát triển. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mô hình này, vẫn còn nhiều rào cản về cơ chế, nhận thức và nguồn lực cần được tháo gỡ. Việc khơi thông các nguồn lực từ chính sách đến doanh nghiệp, từ đổi mới công nghệ đến phát triển thị trường, sẽ là chìa khóa để kinh tế tuần hoàn trở thành động lực tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế Việt Nam.
Cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn
Tại Việt Nam, Luật BVMT năm 2020 đã đưa ra qui định về kinh tế tuần hoàn (KTTH) (Điều 142). Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng lần đầu tiên đã khẳng định chủ trương về KTTH: “xây dựng nền kinh tế xanh, KTTH, thân thiện với môi trường”, “xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình, vận hành mô hình KTTH,...”
Nhằm hướng dẫn chi tiết về tiêu chí, cách thức áp dụng, phân công trách nhiệm và cơ chế khuyến khích áp dụng KTTH trong Nghị định số 08/2022/NĐ-CP. Đặc biệt, tại Điều 139 Nghị định số 08/2022/NĐ-CP về lộ trình, trách nhiệm thực hiện KTTH đã quy định về nội dung, thời hạn và trách nhiệm xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH trong năm 2023 của Bộ TN&MT. Quy định này được đánh giá là một bước đi vô cùng quan trọng, phù hợp với thông lệ quốc tế và có ý nghĩa to lớn trong tiến trình hiện thực hóa KTTH ở quy mô quốc gia. Theo đó, để chuyển đổi thành công từ mô hình tuyến tính sang mô hình KTTH, cần có sự tham gia của tất cả các bên liên quan từ các cơ quan chính phủ, các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân. Do đó, với quan điểm Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật, cung cấp thông tin, dữ liệu; doanh nghiệp là động lực trọng tâm; quyền và lợi ích của người tiêu dùng là động lực dẫn dắt thực hiện KTTH, Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH sẽ được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở đồng thuận, ủng hộ cao của các bên liên quan. Tiếp đến, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 687/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Phát triển KTTH ở Việt Nam. Quyết định số 687/QĐ-TTg đã khẳng định chủ động phát triển KTTH là tất yếu, phù hợp với xu hướng, yêu cầu tạo đột phá trong phục hồi kinh tế và thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDG); góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chủ động thích ứng, chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài, hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Bên cạnh đó, phát triển KTTH phải dựa trên cách tiếp cận mở, hướng nhiều hơn đến tạo dựng không gian và thuận lợi cho phát huy hiệu quả kinh tế, trên cơ sở tăng cường hợp tác quốc tế, bảo đảm huy động và sử dụng hiệu quả tri thức nhân loại, các thành tựu của Cách mạng Công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số, các nguồn lực cần thiết từ khu vực kinh tế tư nhân, các tổ chức quốc tế và các đối tác nước ngoài. Phát triển KTTH cũng đòi hỏi phải có các chính sách dài hạn nhằm khuyến khích, ưu đãi, tạo thuận lợi cho phát triển KTTH, gắn với lộ trình, kết quả cụ thể, đồng thời hoàn thiện cơ sở pháp lý vững chắc và tạo dựng sự linh hoạt, chủ động nhằm sớm phát huy mô hình KTTH theo cấp độ phù hợp ở các ngành, lĩnh vực, địa phương; tránh áp dụng rập khuôn, đồng nhất KTTH cho toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, Quyết định số 687/QĐ-TTg cũng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, có tính chất dài hạn mà các bộ, ngành cần phải thực hiện đồng bộ, trong đó: Rà soát, hoàn thiện khung chính sách và pháp lý nhằm tạo điều kiện cho phát triển KTTH; tăng cường đối thoại công - tư về phát triển KTTH, trên cơ sở phát huy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; có cơ chế, chính sách thu hút và sử dụng đầu tư, phát triển nguồn nhân lực trong phát triển KTTH; hài hòa hóa các tiêu chuẩn đối với các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ từ mô hình KTTH; trao đổi, phối hợp với các đối tác nhằm tạo thuận lợi thương mại, công nhận lẫn nhau cho các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ từ mô hình KTTH.
Một số điểm nghẽn, nút thắt trong phát triển kinh tế tuần hoàn ở nước ta
Một là, nhận thức về khái niệm, nội hàm KTTH còn nhiều hạn chế, còn nhiều cách hiểu khác nhau, trong giới lãnh đạo, hoạch định chính sách và thực thi chính sách, chuyên gia, nhà khoa học, các doanh nghiệp, HTX, hộ gia đình, người tiêu dùng về KTTH.
Hai là, cơ chế, chính sách cho phát triển KTTH cũng còn nhiều hạn chế. Theo đó, dù nội dung KTTH đã được đưa vào Luật BVMT năm 2020, những lại chưa có một hướng dẫn cụ thể cho địa phương, doanh nghiệp, hộ gia đình thực hiện. Việc hướng dẫn thực hiện mới chỉ dừng lại ở văn bản cá biệt là Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, mang nặng tính tuyền truyền thực hiện, chứ chưa phải là văn bản quy phạm pháp luật để các chủ thể liên quan cần phải thực hiện KTTH. Mặt khác, hệ thống pháp luật về KTTH còn phân tán về chức năng quản lý giữa các bộ ngành (Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công Thương,...). Tính hiệu lực, hiệu quả của các quy định pháp luật còn hạn chế. Cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội, thử nghiệm cho phát triển các mô hình KTTH chưa được ban hành.
Ba là, hiện còn quá nhiều Chiến lược, đề án, kế hoạch có liên quan trực tiếp, gián tiếp đến kinh tế xanh, KTTH: Chiến lược bảo vệ môi trường, Chiến lược tăng trưởng xanh, Chiến lược quốc gia ứng phó biến đổi khí hậu, chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững,... các chiến lược, kế hoạch này đều có mục tiêu hướng đến nền kinh tế xanh, KTTH, giảm phát thải, ứng phó với BĐKH. Rõ ràng khi xây dựng triển khai Chiến lược nói trên ở địa phương sẽ có nhiều mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trùng nhau, chưa được rà soát, tích hợp, thống nhất trong thực thi, và cũng không có nguồn lực đi kèm để thực hiện. Điều này dẫn đến việc các địa phương “bội thực” chiến lược, kế hoạch, dẫn đến quá trình hiện thực hoá tại các địa phương khó đi phải thực tiễn cuộc sống. Thực tế cho thấy, các chủ thể doanh nghiệp, hộ gia đình phải là những chủ thể trung tâm của chính sách KTTH, nhưng vai trò, nguồn lực, các công cụ chính sách dành cho các chủ thể này thường lu mờ, ít được quan tâm trong các chính sách về KTTH.
Tư là, qua kết quả đánh giá của nhóm nghiên cứu Viện Kinh tế Việt Nam cho thấy, các mô hình KTTH thành công tại Việt Nam còn chưa nhiều để trở thành những hình mẫu cho các địa phương, tham khảo, học tập. Cơ chế, chính sách dẫn dắt kiến tạo cho KTTH ở cấp độ quốc gia, địa phương còn thiếu đồng bộ, mới chỉ dừng ở cam kết chính trị và chủ trương, mà chưa được thể chế toàn diện ở mức độ thực thi chính sách. Đầu tư xanh, tiêu dùng xanh, KTTH chưa trở thành giá trị phổ biến trong cộng đồng xã hội ở địa phương.
Năm là, còn nhiều khó khăn đối với doanh nghiệp, khu công nghiệp khi thực hiện chuyển đổi sang KTTH, khu công nghiệp sinh thái, trong việc tiếp cận các nguồn lực (đất đai, tín dụng, tài chính, hạ tầng, thuế,...) cho việc chuyển đổi sang KTTH, thực tiễn cho thấy nguồn lực này chưa đáp ứng yêu cầu. Đầu tư cho hoạt động R&D, KHCN cho phát triển KTTH còn hạn chế; chưa có sự gắn kết giữa các tổ chức nghiên cứu (viện, trường) với doanh nghiệp. Việc đầu tư vào các ngành/lĩnh vực xanh, KTTH thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn. Việc thúc đẩy kinh tế xanh, KTTH, tín dụng xanh sẽ khiến các TCTD phát sinh chi phí để đầu tư xây dựng hệ thống quản trị phù hợp, nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ ngân hàng. Mặt khác, cơ sở hạ tầng cho phát triển KTTH còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển KTTH. Công nghệ thu gom, xử lý, tái chế, tái sử dụng chất thải còn thiếu đồng bộ, chủ yếu vẫn là chôn lấp. Vị trí của Việt Nam về mức độ sẵn sàng cho CMCN 4.0 so với các nước trong khu vực và trên thế giới còn khiêm tốn.
Khơi thông các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế tuần ở Việt Nam trong kỷ nguyên mới
Như phân tích ở trên khu vực kinh tế tư nhân đang đứng trước kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Do đó, để huy động tối đa, hiệu quả các nguồn lực của các khu vực thành phần kinh tế cho phát triển đất nước trong giai đoạn mới, thì cần phải xem doanh nghiệp, người dân là chủ thể quan trọng nhất, trọng tâm của chính sách, pháp luật. Trong giai đoạn tới, muốn trở thành quốc gia tiên phong, mẫu hình trong chuyển đổi xanh, phát triển xanh, thì chủ thể thực hiện chính là doanh nghiệp và người dân. Nhà nước cần kiến tạo cơ chính sách tốt nhất, nguồn lực tốt nhất để doanh nghiệp và người dân thực hiện các dự án, mô hình kinh tế xanh, KTTH trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Thứ nhất, lãnh đạo bộ, ngành và các địa phương phải xem chuyển đổi xanh, KTTH là việc yêu cầu thật sự cấp thiết, cấp bách, từ cam kết chính trị thì phải được cụ thể hoá triển khai thực hiện trong thực tế, trước mắt thực hiện một cách thực chất, có hiệu quả việc lồng ghép các mục tiêu và định hướng quan trọng Quy hoạch Tỉnh và chiến lược ngành, liên ngành, kèm theo kế hoạch hành động ưu tiên trong 2025-2030.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng để các doanh nghiệp triển khai dự án đầu tư quy có mô lớn, công nghệ cao, khu công nghiệp sinh thái. Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung ngay các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về kinh tế xanh, KTTH còn mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập,...
Thứ ba, khẩn trương xây dựng cơ chế, chính sách cho phát triển doanh nghiệp dân tộc, vì lợi ích và sự phát triển của dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn nhằm phát huy vai trò tiên phong trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng của kinh tế xanh, KTTH, công nghệ mới, có lợi thế cạnh tranh và khả năng dẫn dắt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trong đó tập trung vào các chính sách: Hỗ trợ tiếp cận các yếu tố đầu vào của sản xuất như: vốn, đất đai, nhân lực chất lượng cao, R&D và các yếu tố đầu ra như thị trường, thương hiệu.
Thứ tư, thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới từ kinh tế xanh, KTTH, kinh tế số. Chính phủ cần nghiên cứu các gói chính sách hỗ trợ với quy mô đủ lớn, phù hợp, khả thi để hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy đầu tư các động lực tăng trưởng mới của quốc gia.
Thứ năm, để thực hiện có hiệu quả KTTH trong thực tiễn ở địa phương cần có các dự án và cơ chế thực hiện các dự án tiên phong, quy mô lớn, dẫn dắt như ngọn hải đăng góp phần hiện thực hoá kế hoạch hoạch hành động KTTH ở cấp địa phương, như: Hydrogen, thu hồi khí thải carbon, dự án điện gió, điện sinh khối, điện rác, xử lý rác thải tập trung quy mô liên tỉnh theo hướng tuần hoàn, khu công nghiệp sinh thái... Đối với các nhóm dự án này, Chính phủ cần phải phân cấp phân quyền cho “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Đồng thời cần phải thiết lập cơ chế, hành lang pháp luật minh bạch, rõ ràng, có cơ chế chỉ định nhà đầu tư để rút ngắn thời gian, trình tự, thủ tục, để giao cho doanh nghiệp tư nhân lớn trong nước đủ tiềm lực tài chính, nhân lực và công nghệ thực hiện dự án.
Thứ sáu, để đưa các chính sách liên quan đến kinh tế xanh, KTTH vào dòng chảy chủ đạo của cuộc sống thì cách tiếp cận tuần tự, truyền thống là không đủ. Vì vậy cần nhanh chóng ban hành là cơ chế thử nghiệm cho ngành và lĩnh vực KTTH để thúc đẩy, khuyến khích các nhà đầu tư, doanh nghiệp sớm thử nghiệm các ý tưởng, sáng kiến KTTH, đồng thời đóng góp vào quá trình chuyển đổi xanh, phục hồi xanh ở Việt Nam. Theo đó cơ chế thử nghiệm sẽ tập trung vào các vấn đề lớn sau đây: Tạo đột phá về tư duy chính sách hướng tới mở rộng không gian kinh tế thông qua mô hình KTTH; ứng dụng KH&CN và ĐMST trong các mô hình KTTH; Tạo cơ chế thử nghiệm với các ưu đãi chính sách phù hợp nhằm khuyến khích doanh nghiệp sớm đầu tư vào các dự án KTTH trong một số lĩnh vực (nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp; năng lượng; vật liệu xây dựng) có nhiều tiềm năng.
TS. NGUYỄN THÀNH TRUNG
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 4 năm 2025