
Tín dụng xanh là giải pháp hiệu quả để giảm nhẹ thiệt hại do biến đổi khí hậu
22/02/2025TN&MTTín dụng xanh đang trở thành một công cụ tài chính quan trọng, góp phần giảm thiểu thiệt hại do biến đổi khí hậu và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Trong bối cảnh môi trường toàn cầu đang bị đe dọa bởi sự gia tăng khí nhà kính và suy thoái sinh thái, Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ trong việc hướng tới mục tiêu trung hòa carbon, thông qua Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050.
Xu thế và rào cản phát triển tín dụng xanh
Xu thế phát triển tín dụng xanh trên thế giới đang có nhiều chuyển biến tích cực nhờ sự biểu quyết của các quốc gia trong việc đạt mục tiêu trung hòa carbon và chống biến đổi khí hậu. Tại châu Âu, các quy định như “Taxonomy Xanh” đã được triển khai để định nghĩa và phân loại các hoạt động kinh tế bền vững, qua đó thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân. Tại châu Á, Trung Quốc là một trong những quốc gia dẫn đầu với các chương trình tài chính xanh và phát hành trái phiếu xanh, tạo nên những bước tiến vững chắc trong việc huy động vốn cho các dự án môi trường.
Tại Việt Nam, xu thế tín dụng xanh đang tạo nên những biến đổi tích cực. Nhiều ngân hàng đã bắt đầu tích hợp các tiêu chí xanh vào chiến lược phát triển, chú trọng cung cấp các sản phẩm tín dụng thân thiện với môi trường. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng ban hành nhiều văn bản hướng dẫn và khuyến khích các tổ chức tín dụng tăng tự trọng vào các lĩnh vực xanh như năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ và xây dựng bền vững. Các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong ngành năng lượng, đang dần chuyển hướng sang sử dụng các giải pháp tín dụng xanh nhằm tăng khả năng cạnh tranh và giảm thiểu tác động môi trường.
Đến nay, tín dụng xanh tại Việt Nam đã ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, với dư nợ đạt hơn 23%/năm giai đoạn 2017 - 2022. Tính đến tháng 3/2024, dư nợ tín dụng xanh đạt 637.000 tỷ đồng, chiếm 4,5% tổng dư nợ kinh tế. Tuy nhiên, con số này chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư xanh của doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam cần đầu tư tương đương 6,8% GDP mỗi năm để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Những lĩnh vực được ưu tiên cấp tín dụng xanh, gồm: Năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn, các dự án bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Ví dụ như điện mặt trời, công nghệ tuần hoàn trong ngành dệt may hay các dự án nâng cao khả năng chống chịu tại Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, công tác phân loại dự án xanh và việc áp dụng các tiêu chí môi trường hiện nay vẫn còn rất nhiều hạn chế, dẫn đến khó khăn trong quá trình thực hiện. Ngoài ra, nguồn vốn dài hạn còn hạn chế. Các dự án năng lượng tái tạo, đòi hỏi nguồn vốn lớn và thời hạn dài, nhưng hầu hết nguồn huy động của ngành ngân hàng hiện nay lại có kỳ hạn ngắn. Theo ông Nguyễn Bá Hùng, chuyên gia Kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, chúng ta cần hình thành một thị trường carbon nội địa, từ đó kết nối với thị trường carbon quốc tế để tăng khả năng thu hút nguồn vốn xanh.
Giải pháp thúc đẩy tín dụng xanh bền vững
Vào tháng 10/2021, Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050” với mục tiêu tổng quát là tăng trưởng xanh; hướng đến nền kinh tế xanh, trung hòa carbon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu. Đây được coi là giải pháp hiệu quả, lâu dài để giảm nhẹ thiệt hại do biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, đồng thời cũng góp phần hướng đến phát triển kinh tế bền vững,... thông qua các công cụ như tín dụng xanh, tiêu dùng xanh,…
Để khắc phục những rào cản này, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 đề ra những mục tiêu quan trọng như: Phấn đấu đến năm 2030 giảm ít nhất 15% cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP so với năm 2014, đến năm 2050 là 30%. Chiến lược cũng nhấn mạnh việc ban hành các quy định về phân loại dự án xanh, tăng cường tính bắt buộc trong thực hiện các tiêu chí môi trường.
Các chuyên gia cũng đề xuất đầu tư vào đào tạo và nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng về vai trò của tài chính xanh trong phát triển bền vững. Thúc đẩy việc hình thành các cánh tay nối dài về vốn quốc tế như ADB, WB và khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển các sản phẩm xanh. Hơn nữa, các nỗ lực đồng bộ từ chính phủ, ngành ngân hàng và doanh nghiệp sẽ giúp tín dụng xanh trở thành trụ cột tài chính cho một tương lai bền vững. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng ban hành nhiều chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan đến chuyển đổi xanh như: Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050; Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh; Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững; Quy hoạch điện VIII,...
Nước ta cũng đã tham gia tích cực, có trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế trong chống biến đổi khí hậu như: Cam kết tại COP26 về phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050; Tuyên bố Chính trị thiết lập Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP),...
Nhìn vào Báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2023 cho thấy, để theo đuổi lộ trình phát triển kết hợp khả năng chống chịu và phát thải ròng bằng 0, nước ta cần khoản đầu tư tương đương 6,8% GDP mỗi năm (khoảng 368 tỷ USD cho đến năm 2040). Trong bối cảnh biến đổi khí hậu tác động lớn đến môi trường tự nhiên, gây tổn thất nặng nề về kinh tế.
Có nhiều giải pháp được triển khai để giảm nhẹ thiệt hại do biến đổi khí hậu. Trong đó, những giải pháp về tài chính gồm có tín dụng xanh được xem là hiệu quả và góp phần hướng tới phát triển kinh tế bền vững,… Bên cạnh đó, những động lực từ chính sách của Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng tín dụng xanh. Việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và tăng cường các công cụ hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn để các dự án xanh được thực thi hiệu quả. Thời gian tới, cần có những sáng kiến có tính đột phá trong việc thu hút vốn quốc tế, đặc biệt là các ngành then chốt như năng lượng tái tạo và giao thông xanh, nhất quán với các cam kết quốc tế như COP26.
Định hướng tương lai cho phát triển tín dụng xanh cần nhấn mạnh vào sự kết hợp chặt chẽ giữa các ngành kinh tế, nhất là khu vực tài chính và khu vực sản xuất. Thúc đẩy đổi mới công nghệ xanh, áp dụng các tiêu chí bền vững trong chuỗi cung ứng và tăng cường minh bạch tài chính xanh là những yếu tố then chốt. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đã vạch ra, các địa phương cần kết hợp giữa quy hoạch và các dự án xanh để đạt hiệu quả tối ưu. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy hợp tác với các tổ chức tài chính lớn như ADB, WB để tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, đồng thời trao đổi kinh nghiệm và công nghệ phát triển tín dụng xanh.
Với việc giải quyết các thách thức hiện tại và thực hiện các giải pháp chiến lược, tín dụng xanh sẽ không chỉ đóng vai trò đòn bẩy tài chính mà còn là nền tảng vững chắc cho một tương lai bền vững.
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cũng cho biết, năm 2017 mới chỉ có 5 tổ chức tín dụng tham gia tín dụng xanh, đến nay đã có 50 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh. Bên cạnh đó, mặc dù NHNN đã ban hành nhiều văn bản khuyến khích các ngân hàng tập trung nguồn lực cấp tín dụng xanh, hoàn thiện cơ chế chính sách để góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, có nhiều khó khăn khi đẩy vốn vào lĩnh vực này. Thống đốc cho biết “Ngành ngân hàng đang chờ quy định về phân loại danh mục xanh từ Chính phủ, từ đó kỳ vọng có thể đẩy mạnh vốn hơn vào lĩnh vực này”.
Lãnh đạo một số ngân hàng cũng cho hay, chúng ta ngày càng tập trung vào chiến lược tăng thị phần tín dụng xanh, nhưng hiện chưa có quy chuẩn đồng bộ quy định thế nào là tín dụng xanh. Bên cạnh đó, họ gặp vấn đề khó khăn khi đầu tư xanh như năng lượng tái tạo cần nguồn vốn lớn, kỳ hạn dài trong khi phần lớn huy động của ngành Ngân hàng là kỳ hạn ngắn hạn.
NGUYÊN KHÔI
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 1+2 năm 2025