
Ứng dụng công nghệ viễn thám trong quản lý, giám sát tài nguyên thiên nhiên
14/01/2025TN&MTViệc áp dụng công nghệ viễn thám (CNVT) đã mang lại những hiệu quả trong giám sát tài nguyên thiên nhiên, quan trắc môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó biến đổi khí hậu,… Do đó, đẩy mạnh ứng dụng viễn thám trong quản lý, giám sát tài nguyên là giải pháp tối ưu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.
Ứng dụng công nghệ viễn thám trong quản lý, giám sát nguồn tài nguyên
Với sự phát triển của khoa học, CNVT đã và đang trở thành công nghệ ứng dụng phục vụ đa ngành, đa lĩnh vực, là một trong các hướng đi chủ đạo nhằm phục vụ quản lý tài nguyên thiên nhiên và giám sát môi trường thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Giám sát tài nguyên môi trường là một hướng đi chính của CNVT tại Việt Nam.
Chiến lược phát triển viễn thám quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 1/2/2019. Sau hơn 5 năm triển khai, hệ thống QLNN về viễn thám đã được hình thành, tạo hành lang pháp lý và định hình không gian phát triển dài hạn cho lĩnh vực viễn thám. Chiến lược phát triển viễn thám quốc gia đã xác định 6 nhiệm vụ giải pháp và 9 chương trình, đề án, dự án, nhiệm vụ ưu tiên đầu tư. Chiến lược có phạm vi và đối tượng triển khai rộng trong nhiều ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, đảm bảo đồng bộ, thống nhất trong tổng thể các chiến lược phát triển chung của ngành TN&MT, ngành khoa học công nghệ và lĩnh vực không gian vũ trụ. Qua hơn 5 năm triển khai, Chiến lược đã tác động thay đổi nhận thức, hành động của cơ quan quản lý cũng như các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thúc đẩy phát triển ứng dụng viễn thám. Các tổ chức QLNN về viễn thám từ Trung ương tới địa phương được hình thành. Cơ quan QLNN về viễn thám ở trung ương là Bộ TN&MT, cơ quan thực thi là Cục Viễn thám quốc gia. Tại các địa phương là các Sở TN&MT.
Đến nay, bước đầu Việt Nam đã làm chủ được công nghệ chế tạo, tích hợp vệ tinh viễn thám. Các chuyên gia, nhà khoa học trong nước với sự hỗ trợ của các chuyên gia nước ngoài đã nghiên cứu chế tạo thành công các vệ tinh nhỏ và siêu nhỏ, điển hình là đưa lên quy đạo các vệ tinh MicroDragon và NanoDragon.
Hạ tầng kỹ thuật về viễn thám được hình thành đầy đủ từ vệ tinh viễn thám, trạm điều khiển vệ tinh, trạm thu nhận dữ liệu viễn thám, cơ sở dữ liệu viễn thám. Các trạm thu nhận dữ liệu ảnh viễn thám có thể đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng trong nước, từ dữ liệu độ phân giải trung bình và thấp phục vụ cho mục đích nghiên cứu khí hậu, thiên tai đến các dữ liệu ảnh viễn thám quang học độ phân giải cao, siêu cao. Đáng chú ý, Cục Viễn thám quốc gia đang triển khai dự án xây dựng “Cơ sở dữ liệu viễn thám quốc gia”; dự kiến hoàn thành trong năm 2024 và đưa vào vận hành từ năm 2025. Cơ sở dữ liệu viễn thám quốc gia sẽ lưu trữ toàn bộ dữ liệu, sản phẩm ảnh viễn thám, siêu dữ liệu viễn thám của các bộ, ngành, địa phương giao nộp về Cục Viễn thám quốc gia theo quy định của pháp luật.
Cục Viễn thám quốc gia cũng đang tích cực phát triển các trạm thu mới, có tính năng hiện đại nhằm thu được một số loại vệ tinh viễn thám có độ phân giải siêu cao khác nhau góp phần phục vụ tốt hơn nhu cầu của các bộ, ngành địa phương. Các trạm thu này đi vào hoạt động sẽ tăng hiệu quả ứng dụng ảnh viễn thám, cho phép theo dõi, giám sát các đối tượng trên bề mặt ở nhiều mức độ khác nhau về cả không gian và thời gian, từ khái quát đến chi tiết. Đặc biệt, Cục đẩy mạnh việc phổ biến dữ liệu viễn thám cho địa phương, mở rộng thêm một số đối tượng được cung cấp miễn phí; hỗ trợ tư vấn trong ứng dụng viễn thám ở các địa phương, tiếp tục tuyên truyền, quảng bá CNVT, giới thiệu về CNVT; đẩy mạnh xã hội hóa việc ứng dụng CNVT phục vụ phát triển bền vững KT-XH, bảo đảm quốc phòng - an ninh, đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về viễn thám.
Tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng công nghệ viễn thám trong thực tiễn
Công nghệ viễn thám có vai trò quan trọng, đang trở thành công nghệ ứng dụng đa ngành, đa lĩnh vực. Với ưu thế phong phú thông tin, phản ánh một cách chính xác sự phân bố, trạng thái của các đối tượng, CNVT đã bao quát được hầu hết các mặt đời sống, kinh tế - xã hội.
Việc áp dụng CNVT đã mang lại những hiệu quả trong giám sát tài nguyên thiên nhiên, quan trắc môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó biến đổi khí hậu. Đến thời điểm này, CNVT được ứng dụng mạnh mẽ trong quản tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng, trở thành một trong các hướng đi chủ đạo của ngành TN&MT nhằm quản lý tài nguyên thiên nhiên, giám sát môi trường thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Bên cạnh đó, một số Dự án tiêu biểu sử dụng CNVT đã được triển khai như Dự án “Sử dụng CNVT và GIS xây dựng cơ sở dữ liệu thành lập bản đồ diễn biến vùng ô nhiễm, vùng nước thải từ các khu công nghiệp, đô thị nhằm đưa ra cảnh báo các vùng có nguy cơ ô nhiễm vùng kinh tế trọng điểm miền Trung”, Dự án “Giám sát một số vùng biển, đảo trọng điểm xa bờ bằng CNVT phục vụ phát triển KT-XH và bảo đảm an ninh quốc phòng”; Dự án “Giám sát xói lở bờ biển tại một số khu vực trọng điểm miền Trung bằng CNVT”;…
CNVT cũng hỗ trợ thực hiện kiểm kê khí nhà kính trong lĩnh vực sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp phục vụ xây dựng các báo cáo quốc gia và đóng góp của Việt Nam cho công ước khí hậu. Đặc biệt, Dự án “Giám sát tài nguyên biển, hải đảo bằng CNVT” hoàn thành là lần đầu tiên Việt Nam có được chi tiết bức tranh toàn cảnh về biển đảo quốc gia với những thông tin trên diện rộng, đa thời gian, chính xác và nhanh chóng nhất.
Xu hướng phát triển của CNVT của thế giới trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới có thể sẽ rất khác so với công nghệ hiện tại đang sử dụng và nhiều khái niệm mới về hệ thống viễn thám, CNVT cũng sẽ ra đời. Điều này đòi hỏi chúng ta phải phân tích dự báo và nắm bắt được các xu thế đó để có định hướng phát triển khoa học và công nghệ phù hợp. Việc “đi tắt đón đầu” sẽ tận dụng được tri thức của nhân loại cũng như rút ngắn khoảng cách về trình độ thông qua hợp tác nghiên cứu, chuyển giao và phát triển công nghệ,…
Theo ông Chu Hải Tùng, Phó Cục trưởng Cục Viễn thám, để đón đầu xu thế mới, thời gian tới, chúng ta cần ưu tiên vào các nhóm công nghệ chủ chốt của lĩnh vực viễn thám và tập trung sự đầu tư nghiên cứu, phát triển vào các nhóm công nghệ này. Hiện Cục đang tiếp tục đẩy mạnh đề xuất các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học tập trung vào nhóm giải pháp cung cấp cơ sở khoa học, hoàn thiện cơ chế chính sách, văn bản quy phạm pháp luật phục vụ QLNN về hoạt động viễn thám; cải tiến quy trình công nghệ theo hướng tự động hóa ứng dụng CNVT trong giám sát TN&MT. Đồng thời, tăng cường đầu tư để hoàn thiện hệ thống thiết bị viễn thám trên vệ tinh; mạng lưới trạm thu viễn thám; hệ thống lưu trữ và xử lý, cơ sở dữ liệu viễn thám; mạng lưới truyền dẫn dữ liệu viễn thám; xây dựng hệ thống trạm thu, hệ thống xử lý dữ liệu, cơ sở dữ liệu ảnh viễn thám quốc gia đáp ứng nhu cầu phục vụ phát triển KT-XH, quốc phòng - an ninh.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu ứng dụng CNVT trong mọi lĩnh vực, trong đó bao gồm quản lý, giám sát tài nguyên không chỉ mang lại những kết quả quan trọng về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, mà còn hỗ trợ cho các cấp QLNN có quyết định chính sách và quản lý tài nguyên một cách hiệu quả hơn.
NGUYÊN KHÔI
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 20 (Kỳ 2 tháng 10) năm 2024