
Vấn nạn chất thải rắn sinh hoạt tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên
04/10/2022TN&MTQuản lý chất thải rắn sinh hoạt là một trong những nội dung quan trọng được quy định mới trong Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020. Để thực hiện hiệu quả vấn đề này, cần có sự tham gia mạnh mẽ của doanh nghiệp, đồng thời Nhà nước cần tiếp tục có những chính sách khuyến khích thực hiện các mô hình kinh tế tuần hoàn tại doanh nghiệp, tăng cường thực thi pháp luật về quản lý chất thải. Cùng với đó, cần có các chính sách cụ thể ưu đãi cho các hoạt động xử lý để thu hút các doanh nghiệp tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ chất thải.
Vấn nạn chất thải rắn
Theo báo cáo của Cục Bảo vệ Môi trường, trong những năm qua, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) phát sinh ngày càng tăng, tính chất và thành phần phức tạp, trong đó thành phần chất thải nhựa cao. Giai đoạn 2016 - 2021, lượng CTRSH phát sinh tiếp tục gia tăng trên phạm vi cả nước. Ước tính lượng CTRSH phát sinh ở các đô thị trên toàn quốc tăng trung bình 10% - 16% mỗi năm. Năm 2021, tổng khối lượng CTRSH phát sinh trên địa bàn 45/63 tỉnh/thành phố là khoảng 51.586 tấn/ngày; trong đó khu vực đô thị phát sinh khoảng 30.807 tấn/ngày và khu vực nông thôn khoảng 20.778 tấn/ngày; tỷ lệ chất thải nhựa khoảng 10 - 12%. Tỷ lệ chất thải rắn được thu gom tại khu vực đô thị tăng dần theo các năm; trong đó, năm 2020 tỷ lệ đạt khoảng 94,71% và năm 2021 đạt khoảng 96,37%.
Đối với khu vực miền Trung và Tây Nguyên, theo thống kê năm 2021, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên phát sinh khoảng 8.500 tấn/ngày. Đối với Đà Nẵng, năm 2021, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng phát sinh khoảng 1.027 tấn/ngày. Trong đó khu vực đô thị khoảng 964 tấn/ngày, tỷ lệ thu gom đạt 100 %; khu vực nông thôn khoảng 63,5 tấn/ngày, tỷ lệ thu gom khoảng 100 %.
Tuy nhiên, rác thải sinh hoạt, đặc biệt là rác thải sinh hoạt tại nông thôn hầu hết chưa được phân loại tại nguồn; mới chỉ được thực hiện tại một số địa phương và vẫn mang tính khuyến khích. Một số địa phương thực hiện thí điểm phân loại tại nguồn tại một số khu vực với quy mô lớn như: TP. Hồ Chí Minh, TP. Cần Thơ (riêng khu vực miền Trung và Tây Nguyên mới chỉ có 4/14 tỉnh, thành phố gồm: Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Bình Định và Quảng Nam đã từng thí điểm phân loại rác tại nguồn). Rác thải sinh hoạt chưa được thu gom, xử lý hiệu quả; vẫn còn 17% rác thải nông thôn chưa được thu gom và thải bỏ ra môi trường xung quanh. Chôn lấp vẫn là phương pháp được áp dụng phổ biến; 70% tổng lượng chất thải được xử lý bằng phương pháp chôn lấp nhưng chỉ có khoảng 20% là bãi chôn lấp hợp vệ sinh, còn lại là các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh hoặc các bãi tập kết chất thải cấp xã; 16% tổng lượng chất thải được xử lý tại các nhà máy chế biến phân compost và khoảng 13% tổng lượng chất thải được xử lý bằng phương pháp đốt. Rác thải điện tử, chất thải nhựa sử dụng một lần, túi nilon chưa được thu gom, xử lý đúng cách; Ước tính có gần 3,0 triệu tấn rác thải nhựa phát sinh trong năm 2020, một lượng lớn trôi nổi trên sông, hồ, vùng đất ngập nước cửa sông, ven biển.
Còn tại địa bàn các tỉnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên, theo kết quả đánh giá những năm gần đây cho thấy, toàn khu vực có khoảng 173 cơ sở xử lý/bãi chôn lấp CTRSH. Trong đó, tỷ lệ các công nghệ được áp dụng tại các cơ sở xử lý là: chôn lấp hợp vệ sinh (30%), đốt (10%), sản xuất phân vi sinh (7%), tái chế (2%). Các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh lại chiếm tỷ lệ lớn (51%), tương đương với 102 bãi trên toàn bộ khu vực miền Trung và Tây Nguyên chủ yếu là bãi rác hở, đổ lộ thiên (rác đổ đống, để khô đốt và khi đầy thì lấp đất) hoặc bán lộ thiên (đào hố rãnh sâu, đổ rác, để khô đốt và khi đầy thì lấp đất); do đó không đảm bảo các yêu cầu kĩ thuật, vệ sinh môi trường và các bãi chôn lấp chưa được đầu tư hệ thống xử lý khí thải và nước rỉ rác. Phương pháp xử lý CTRSH tại các bãi này chủ yếu là phun chế phẩm sinh học hạn chế mùi và côn trùng; rắc vôi khử khuẩn.
ảnh minh họa
Về cơ chế công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt, trong những năm qua, tình trạng chung trên cả nước và khu vực miền Trung và Tây Nguyên nổi bật lên là vấn đề văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường chưa đồng bộ, nhiều văn bản chồng chéo, trách nhiệm về quản lý chất thải rắn sinh hoạt còn chưa rõ ràng giữa các ngành, các cấp. Phần lớn các tỉnh, thành phố đều thiếu nguồn vốn để thực hiện quy hoạch quản lý CTR. Nguồn vốn ngân sách các cấp đầu tư cho việc quản lý chất thải rắn ở khu vực công ích còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, khó khăn trong kêu gọi xã hội hóa do cơ chế, chính sách ưu đãi đối với lĩnh vực này còn thấp. Công tác đào tạo nâng cao năng lực quản lý chất thải rắn cho cán bộ cấp huyện, cấp xã chưa được chú trọng đúng mức. Số lượng cán bộ làm công tác quản lý CTR các cấp còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu.
lò đốt rác nông thôn, càng vận hành càng xuống cấp
Hiện nay, cũng chưa có quy định cụ thể về thẩm định công nghệ xử lý chất thải rắn, cũng như chưa khuyến cáo công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt để áp dụng do đó địa phương còn gặp nhiều lúng túng khi lựa chọn công nghệ xử lý rác thải sinh họat. Việc nghiên cứu khoa học, công nghệ xử lý, tái chế, tái sử dụng nhằm phát huy tối đa giá trị từ rác thải chưa được chú trọng. Công nghệ xử lý rác thải hiện tại chủ yếu là chôn lấp; sử dụng diện tích đất lớn gây lãng phí tài nguyên, khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng; một số bãi chôn lấp thực hiện đốt thủ công gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ý thức bảo vệ môi trường trong một bộ phận nhân dân và doanh nghiệp còn hạn chế, đặc biệt là tại các khu vực miền biển, miền núi. Hiện vẫn còn xảy ra tình trạng vứt rác bừa bãi làm mất mỹ quan, gây ô nhiễm môi trường.
Đưa ra một số đề xuất
Hiện nay, cơ chế, chính sách liên quan đến xử lý rác còn rất thiếu và yếu, nên các chính quyền địa phương, doanh nghiệp lúng túng, không mặn mà đầu tư. Vì thế, việc xử lý rác không có lối ra, không có đường đi rõ ràng. Việc khuyến khích đầu tư, xã hội hóa nhưng chưa hướng dẫn cụ thể thì ai sẽ thực thi, thực thi như thế nào? khuyến khích ưu đãi nhưng chưa nêu cụ thể ưu đãi cái gì? Điều này dẫn đến tình trạng một số doanh nghiệp đầu tư từ nhiều nguồn vốn khác nhau: ODA, vốn tư nhân,… nhưng phát triển cũng không bền vững. Sau một thời gian vận hành thì các nhà máy xử lý rác cũng dừng hoạt động vì thu không đủ chi; máy móc, thiết bị hư hỏng không có kinh phí sửa chữa.
Cần lắm những lò đốt rác thải sinh hoạt không sử dụng nhiên liệu
Một số lò đốt rác nói là công nghệ tiên tiến nhưng khí thải không đảm bảo tiêu chuẩn môi trường, hoặc tro, xỉ tro cháy không triệt để, còn tỉ lệ lớn khó xử lý, số này lại chuyển thành rác nguy hại, lại phải đi chôn lấp, xử lý lại chi phí rất lớn.
Trước thực trạng này, thiết nghĩ Bộ TN&MT cần tham mưu trình Chính phủ ra quyết định các cơ chế chính sách để hỗ trợ ngành xử lý rác Việt Nam, tạo ra con đường thuận lợi để đạt mục tiêu giải quyết việc xử lý rác được như mong đợi đề ra tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Cần khuyến khích tái chế, sử dụng qua nhiều vòng trước khi tiêu hủy bằng phương pháp đốt hay phương pháp khác.
Công tác quản lý chất thải, đặc biệt là CTRSH là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương. Việc đề xuất được các giải pháp đồng bộ từ mô hình quản lý, mô hình công nghệ xử lý chất thải nhằm kiểm soát, giải quyết được bài toán xử lý triệt để tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải là vấn đề hết sức cấp thiết.
Bảo Trâm