
Xây dựng mô hình truyền thông chính sách tài nguyên và môi trường hiệu quả dựa vào cộng đồng
20/01/2025TN&MTNgày 20/1/2025, tại Hà Nội, Hội đồng tư vấn đánh giá, nghiệm thu đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ đã tổ chức nghiệm thu đề tài khoa học cấp Bộ: "Nghiên cứu xây dựng mô hình truyền thông chính sách và pháp luật về tài nguyên và môi trường cho người dân các huyện, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo - Áp dụng thử nghiệm tại một số địa phương ven biển miền Trung". Đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ do Tạp chí Tài nguyên và Môi trường và Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội thực hiện.
Hội đồng nghiệm thu có 09 thành viên: Chủ tịch: TS. Vũ Thị Hằng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ TN&MT); Phó Chủ tịch, TS. Trương Đức Trí, Phó Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam; các Ủy viên: PGS, TS. Dương Xuân Sơn, Trường Đại học KHXH & Nhân văn, PGS, TS. Trịnh Văn Tùng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, ThS. Vũ Minh Lý, Phó Giám đốc Trung tâm Truyền thông Tài nguyên và Môi trường; TS. Phạm Thị Mỵ, Tổng Biên tập Tạp chí Sức khỏe & Môi trường; ThS. Phan Quang; Vụ Pháp chế (Bộ TN&MT), ThS. Trần Thị Thêm, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính ; TS. Vũ Thắng Phương, Vụ Khoa học và Công nghệ, Thư ký Hội đồng.
TS. Đào Xuân Hưng, Tổng Biên tập Tạp chí Tài nguyên & Môi trường, Chủ nhiệm đề tài báo cáo Hội đồng đánh giá nghiệm thu
Phát biểu trước Hội đồng nghiệm thu, TS. Đào Xuân Hưng cho biết, sau hai năm triển khai, đề tài đã hoàn thành khối lượng công việc lớn, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đề ra. Ông bày tỏ mong muốn Hội đồng đánh giá một cách khách quan, công tâm, ghi nhận những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế cần khắc phục để nhóm nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện. Ông cũng kỳ vọng rằng, sau khi đề tài được nghiệm thu, các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ sẽ tiếp tục đồng hành, đẩy mạnh công tác truyền thông nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng và đưa chính sách, pháp luật về tài nguyên và môi trường đến gần hơn với người dân, đặc biệt là tại các khu vực khó khăn.
Đại diện nhóm nghiên cứu, TS. Vũ Văn Doanh, Phó trưởng Khoa Khoa học Môi trường, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thư ký đề tài cho biết mục tiêu chính của đề tài là tổng quan cơ chế và công cụ truyền thông chính sách, pháp luật tại Việt Nam đối với người dân ở các huyện, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo. Nghiên cứu đã xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn cho hoạt động truyền thông, từ đó đề xuất các giải pháp và mô hình truyền thông phù hợp nhằm tăng cường thực thi và tuân thủ chính sách, pháp luật tại khu vực miền Trung.
TS. Vũ Văn Doanh, Thư ký đề tài đã báo cáo kết quả đề tài và những nội dung đã được chỉnh sửa, hoàn thiện sau buổi họp đánh giá đề tài cấp cơ sở.
Trong quá trình thực hiện, nhóm nghiên cứu đã khảo sát thực trạng hoạt động truyền thông tại ba địa phương điển hình là Thanh Hóa, Quảng Trị và Khánh Hòa, tập trung vào các nội dung quan trọng như tuyên truyền về chủ quyền biển đảo, pháp luật đất đai, tài nguyên nước và bảo vệ môi trường. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp cái nhìn khách quan về những khó khăn, hạn chế cũng như tiềm năng phát triển công tác truyền thông trong khu vực.
Dựa trên dữ liệu thực tế thu thập được, nhóm nghiên cứu đã đề xuất một mô hình truyền thông chính sách và pháp luật phù hợp với đặc thù của từng địa phương, bao gồm 8 bước thực hiện cụ thể và 3 cuốn sổ tay hướng dẫn nhằm hỗ trợ các đối tượng thụ hưởng tiếp cận và triển khai hiệu quả. Đề tài cũng tiến hành thử nghiệm mô hình tại một số địa phương, qua đó rút ra các bài học kinh nghiệm thực tiễn và điều chỉnh các giải pháp phù hợp.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu đã xây dựng và phát sóng 2 phóng sự trên kênh VTC6, góp phần lan tỏa thông tin, nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của việc tuân thủ chính sách, pháp luật trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường. Kết quả nghiên cứu được đánh giá có tác động tích cực đến các địa phương thực hiện, đặc biệt trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và người dân. Những nội dung tuyên truyền về chính sách, pháp luật tài nguyên và môi trường sẽ giúp người dân hiểu biết rõ hơn, từ đó hình thành thái độ và hành vi phù hợp với chuẩn mực pháp luật.
Ngoài ra, đề tài đã góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu và chuyên môn nghiệp vụ cho giảng viên, phóng viên, nghiên cứu viên và sinh viên tham gia. Điều này không chỉ đóng góp vào công tác đào tạo nguồn nhân lực mà còn gia tăng giá trị thực tiễn của hoạt động truyền thông tại địa phương. Nghiên cứu cũng đề xuất một hệ thống giải pháp tổng thể nhằm tăng cường hiệu quả truyền thông, bao gồm các giải pháp về chính sách, cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan, nâng cao năng lực truyền thông và cải thiện điều kiện cơ sở vật chất phục vụ công tác tuyên truyền.
Theo TS. Vũ Văn Doanh, để tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả mô hình truyền thông, nhóm nghiên cứu đề xuất mở rộng phạm vi nghiên cứu đối với các nhóm đối tượng liên quan, đặc biệt là chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính toàn diện và độ tin cậy cao hơn của kết quả nghiên cứu. Việc thu thập ý kiến từ các nhóm này sẽ giúp điều chỉnh mô hình truyền thông phù hợp với nhu cầu thực tế của từng địa phương.
Bên cạnh đó, cần tăng cường đầu tư vào cơ sở vật chất, nhân lực và kinh phí để nâng cao hiệu quả truyền thông. Hệ thống trang thiết bị hỗ trợ, hạ tầng truyền thông cần được cải thiện để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Đồng thời, việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ tuyên truyền viên chuyên trách là vô cùng cần thiết nhằm đảm bảo triển khai hiệu quả các hoạt động truyền thông, phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương.
Nhóm nghiên cứu cũng khuyến nghị các cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị truyền thông cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn trong việc xây dựng nội dung truyền thông phù hợp với từng đối tượng. Nội dung tuyên truyền cần dễ hiểu, dễ tiếp cận, phù hợp với trình độ nhận thức của người dân vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả truyền thông và ý thức chấp hành pháp luật của cộng đồng.
TS. Trương Đức Trí, Phó Chủ tịch Hội đồng đánh giá những kết quả đạt được của nhóm nghiên cứu và đưa ra một số góp ý thêm cho sản phẩm sổ tay Hướng dẫn các hình thức truyền thông về chính sách pháp luật TN&MT
Đặt câu hỏi cho nhóm nghiên cứu, TS. Trương Đức Trí muốn biết liệu đề tài có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm nào từ quốc tế để áp dụng vào thực tiễn trong nước. Liên quan đến việc xây dựng mô hình truyền thông, ông Trịnh Văn Tùng đề nghị nhóm nghiên cứu làm rõ tên gọi chính thức của mô hình mà đề tài đang phát triển và triển khai, nhằm xác định rõ định hướng và tính ứng dụng của nghiên cứu. Ngoài ra, thư ký Hội đồng đặt vấn đề về sự khác biệt giữa đề tài với các dự án truyền thông khác do Bộ đang thực hiện.
Trả lời câu hỏi của TS. Trương Đức Trí, TS. Vũ Văn Doanh cho biết nhóm nghiên cứu đã tham khảo mô hình truyền thông của ba quốc gia là Mỹ, Nhật Bản và Úc. Ông nhận định rằng tại Nhật Bản, vai trò và nhiệm vụ của các cơ quan liên quan được phân định rất rõ ràng, trong khi ở Việt Nam vẫn còn tình trạng chồng chéo chức năng giữa các đơn vị, khiến hoạt động truyền thông gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin vào truyền thông tại các quốc gia này rất cao, trong khi tại Việt Nam, đặc biệt ở các xã khó khăn, hình thức truyền thông chủ yếu vẫn là qua loa phát thanh địa phương hoặc đài truyền thanh, dù mạng xã hội đã bắt đầu phát triển trong một số hội nhóm cộng đồng. Về tên gọi của mô hình truyền thông đang triển khai, TS. Vũ Văn Doanh cho biết đây là "Mô hình truyền thông chính sách dựa vào cộng đồng," với mục tiêu gắn kết chặt chẽ giữa chính quyền và người dân, từ đó nâng cao hiệu quả thực thi chính sách.
Làm rõ hơn về sự khác biệt của đề tài so với các dự án truyền thông khác của Bộ, TS. Vũ Văn Doanh nhấn mạnh rằng, thông thường, sau khi Bộ ban hành các văn bản luật như Luật Đất đai hay Luật Tài nguyên nước, các dự án truyền thông đi kèm chủ yếu tập trung vào việc cập nhật những điểm mới của luật để phổ biến rộng rãi đến người dân. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu này có cách tiếp cận mang tính đặc thù, được xây dựng dựa trên nhu cầu thực tế của từng địa phương.
Cụ thể, tại huyện Hậu Lộc (Thanh Hóa), vấn đề trọng tâm là nước sạch; ở Khánh Hòa, người dân quan tâm đến chủ quyền biển đảo; còn tại Quảng Trị, vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu được đặt lên hàng đầu. Như vậy, thay vì chỉ cung cấp thông tin một cách đại trà và đồng loạt như các dự án truyền thông của Bộ, đề tài hướng tới việc nghiên cứu sâu sắc các đặc điểm riêng biệt của từng địa phương, từ đó đưa ra giải pháp truyền thông phù hợp và hiệu quả hơn.
PGS, TS. Dương Xuân Sơn ủy viên phản biện 1, đánh giá đề tài và đề xuất nhóm nghiên cứu nên biên soạn thành một cuốn sách chuyên khảo để nâng cao tính ứng dụng và giá trị thực tiễn.
Đại diện tổ chuyên gia, PGS, TS. Dương Xuân Sơn, đã trình bày báo cáo thẩm định sản phẩm của đề tài, trong đó cung cấp thông tin chung về quá trình thực hiện. Theo báo cáo, được triển khai từ tháng 3/2023 và dự kiến kết thúc vào tháng 2/2025, hoàn thành sớm hơn kế hoạch ban đầu 3 tháng. Nội dung thẩm định bao gồm việc kiểm tra nhiệm vụ và các tài liệu liên quan, đồng thời xem xét kỹ lưỡng các kết quả đạt được của mô hình truyền thông, các tài liệu, sản phẩm minh chứng, cũng như tiến hành khảo sát thực tế tại hiện trường.
Qua quá trình kiểm tra, tổ chuyên gia đánh giá rằng các kết quả đầu ra của đề tài đã được thể hiện đầy đủ trong các loại báo cáo, tài liệu đào tạo và các công bố khoa học trên tạp chí chuyên ngành. Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu được đánh giá cao về tính logic, khoa học và độ tin cậy, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu theo hợp đồng đặt hàng. Tuy nhiên, tổ chuyên gia cũng đề nghị chủ nhiệm đề tài cần làm rõ hơn về phương thức chuyển giao kết quả sau khi kết thúc nghiên cứu để đảm bảo tính ứng dụng thực tiễn. Bên cạnh đó, để hoàn thiện hơn, đề tài cần được bổ sung và chỉnh sửa nhằm xuất bản một cuốn sách chuyên khảo, qua đó nâng cao giá trị học thuật và tính lan tỏa của nghiên cứu.
PGS, TS. Trịnh Văn Tùng, ủỷ viên phản biện 2, đánh giá cao nỗ lực của nhóm nghiên cứu trong việc hoàn thiện đề tài
PGS, TS. Trịnh Văn Tùng, phản biện 2, nhất trí với những nhận xét chi tiết của PGS, TS. Dương Xuân Sơn và đánh giá cao nỗ lực của nhóm nghiên cứu trong việc hoàn thiện đề tài. Ông đề xuất rằng, nếu có thêm nguồn lực và thời gian, nhóm nên biên soạn thành một cuốn sách chuyên khảo để nâng cao tính ứng dụng và giá trị thực tiễn. Ông nhấn mạnh, đề tài mang tính can thiệp ở cấp độ hai, bao gồm xây dựng, đánh giá và chuyển giao mô hình truyền thông, có ý nghĩa quan trọng trong thực tế. Bên cạnh đó, ông đề xuất nhóm nghiên cứu cần làm rõ khái niệm và cơ sở lý luận của mô hình truyền thông chính sách dựa vào cộng đồng, đồng thời phân tích vai trò chủ động và khai thác hiệu quả các nguồn lực cộng đồng, giúp tối ưu hóa công tác truyền thông tại địa phương.
Về mặt cấu trúc, PGS, TS. Trịnh Văn Tùng đề nghị điều chỉnh báo cáo cho phù hơp, lồng ghép nội dung về công cụ chính sách truyền thông vào phần cơ sở lý luận để đảm bảo tính logic và chặt chẽ. Ông cũng khuyến nghị làm rõ các đặc điểm của vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo như tác động của thủy triều, xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường. Khi phân tích thực tiễn, nhóm nghiên cứu cần tập trung vào các liên kết cộng đồng chủ đạo để đảm bảo tính bền vững. Ông nhấn mạnh rằng truyền thông chỉ thực sự hiệu quả khi gắn với lợi ích thiết thực của người dân, giúp họ nhận thức rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường gắn với thích ứng biến đổi khí hậu.
TS. Phạm Thị Mỵ, Tổng Biên tập Tạp chí Sức khỏe & Môi trường đánh giá cao kết quả của nhóm nghiên cứu
TS. Phạm Thị Mỵ, Tổng Biên tập Tạp chí Sức khỏe & Môi trường, cũng đồng tình với các ý kiến phản biện và đề nghị nhóm nghiên cứu làm rõ sự khác biệt giữa truyền thông và tuyên truyền, nhấn mạnh rằng người dân ven biển hiện nay tiếp cận thông tin từ nhiều nguồn nên cần bổ sung các hình thức trực quan như tờ rơi, poster để tăng hiệu quả truyền thông.
ThS. Vũ Minh Lý đánh giá cao nhóm thực hiện đề tài khoa học, bài bản của nhóm nghiên cứu và nhận định mô hình có thể áp dụng không chỉ ở miền Trung mà còn mở rộng ra các vùng ven biển khác. Ông mong muốn mô hình được triển khai rộng rãi trong Bộ và giới thiệu đến các cơ quan quản lý nhà nước để áp dụng thực tiễn, đồng thời nhất trí đánh giá đề tài đạt mức khá.
Phó Chủ tịch Hội đồng Trương Đức Trí đánh giá những kết quả đạt được của nhóm nghiên cứu nhưng góp ý sản phẩm sổ tay còn dàn trải, cần cô đọng hơn và nên chuyển thành tờ rơi để dễ tiếp cận. Ông nhấn mạnh mô hình thử nghiệm truyền thông chính sách nên tập trung vào vấn đề môi trường biển, hải đảo, phù hợp với điều kiện cơ sở hạ tầng còn hạn chế tại địa phương.
Các công cụ truyền thông, đặc biệt là video, cần đơn giản, dễ nhớ và phù hợp với nền tảng giáo dục của người dân. Đồng thời, đề tài cần đánh giá đầy đủ công tác chính sách môi trường biển, tập trung vào hệ sinh thái biển và quyền lợi của người dân, cũng như chỉ rõ những hạn chế của các mô hình truyền thông hiện tại. Việc xác định yếu tố hiệu quả và tính bền vững của chính sách là rất quan trọng, do đó nội dung truyền thông cần ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ dân trí ở khu vực bãi ngang ven biển.
Các thành viên Hội đồng chụp ảnh kỷ niệm cùng nhóm nghiên cứu
Thư ký hội đồng công bố điểm trung bình của đề tài đạt mức khá cao. PGS, TS. Nguyễn Bá Dũng, Trưởng phòng KHCN và Hợp tác quốc tế, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội bày tỏ lời cảm ơn đến hội đồng nghiệm thu và cam kết phối hợp với nhóm nghiên cứu để hoàn thiện và nộp báo cáo theo quy định. TS. Đào Xuân Hưng, thay mặt nhóm nghiên cứu, cảm ơn hội đồng đã đóng góp những ý kiến thiết thực giúp đề tài được chỉnh sửa, hoàn thiện và ứng dụng hiệu quả hơn trong thực tế, cảm ơn sự quan tâm ủng hộ của lãnh đạo Vụ Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã luôn ủng hộ hỗ trợ tối đa về điều kiện để nhóm nghiên cứu thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Phát biểu kết luận buổi nghiệm thu, Chủ tịch Hội đồng - TS. Vũ Thị Hằng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, đánh giá cao những đóng góp của chủ nhiệm đề tài, nhóm nghiên cứu đề tài và cơ quản chủ trì; phần báo cáo tổng kết và báo cáo tóm tắt có cấu trúc hợp lý, phù hợp với yêu cầu của một báo cáo khoa học; về chủng loại, số lượng, khối lượng, tiến độ và chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu đặt hàng. TS. Vũ Thị Hằng đánh giá cao sự nỗ lực của nhóm nghiên cứu khi hoàn thành đề tài trước thời hạn ba tháng. Tuy nhiên, bà cũng nhấn mạnh rằng nhóm nghiên cứu cần tiếp thu đầy đủ các ý kiến đóng góp của Hội đồng để bổ sung và hoàn thiện nội dung đề tài, tiếp tục hoàn thiện báo cáo, đồng thời tổ chức chuyển giao sản phẩm theo đúng quy trình.
Ngọc Huyền