Hội thảo Chuyên đề 3: Nhận diện thực trạng nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám

10/05/2025

TN&MTChiều ngày 10/5, tiếp nối phiên toàn thể của Hội nghị triển khai Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số Quốc gia ngành Nông nghiệp và Môi trường tại Bắc Ninh đã diễn ra phiên Hội thảo chuyên đề 3 gồm các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám.

Toàn cảnh Hội thảo chuyên đề 3

TS. Hoàng Văn Thức, Cục trưởng Cục Môi trường điều hành chuyên đề. Tham dự và báo cáo tại Hội thảo chuyên đề có lãnh đạo quản lý các đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường: ThS. Châu Trần Vĩnh, Cục trưởng, Cục Tài nguyên nước; PGS.TSKH Nguyễn Xuân Hải, Phó Cục trưởng, Cục Môi trường; PGS.TS. Phạm Minh Hải, Phó Cục trưởng, Cục Viễn thám quốc gia; TS. Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng, Cục Quản lý Tài nguyên nước; TS. Nguyễn Anh Đức, Phó Viện trưởng, Viện Khoa học Tài nguyên nước; TS. Triệu Đức Huy, Phó giám đốc, Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia.

Hội nghị có sự tham gia của một số chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp đang công tác và nghiên cứu trong phạm vi thuộc 3 lĩnh vực nói trên.

Hội thảo chuyên đề 3 là dịp để các chuyên gia, nhà khoa học đánh giá khái quát một số kết quả nghiên cứu trong thời gian qua, đồng thời chỉ ra thực trạng, những bất cập khó khăn trong thực tiễn triển khai công tác nghiên cứu, cùng nhau gợi mở những giải pháp thực hiện trong thời gian tới nhằm mục đích triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57 - NQ/TW hiệu quả.

Quản trị Tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số

Phát biểu tại Hội thảo Chuyên đề 3, TS. Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Tài nguyên nước đã trình đã trình bày nội dung về Quản trị tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số. Báo cáo đã tập trung luận giải các kết quả đạt được trong công tác: (1) Giám sát tài nguyên nuyên nước trên nền tảng IoT; (2) Vận hành quy trình vận hành liên hồ chứa trên nền tảng công nghệ số và IoT; (3) Bản đồ hạn hán thời gian thực trên cơ sở công nghệ số phục vụ công tác quản lý, phản ứng chính sách một cách kịp thời có hiệu quả.

Cũng theo TS. Nguyễn Minh Khuyến, tính đến tháng 4/2025, Hệ thống giám sát tài nguyên nước đã có 831 công trình khai thác tài nguyên nước thuộc đối tượng cấp phép của Bộ NN&MT đăng ký, kết nối truyền dữ liệu về hệ thống. Trong đó, Cục Quản lý tài nguyên nước đã phê duyệt kết nối thành công để truyền dữ liệu về hệ thống đối với 810 công trình (công trình nước mặt: 697 công trình; công trình nước dưới đất: 111 công trình; nước biển: 02 công trình).

“Hệ thống giám sát tài nguyên nước được xây dựng và đi vào vận hành đã mang lại những kết quả ban đầu, hỗ trợ tích cực cho công tác quản lý tại Trung ương và các địa phương. Từ dữ liệu của các công trình kết nối, truyền về Hệ thống giám sát tài nguyên nước Trung ương đã góp phần đắc lực cho công tác quản lý điều hành, ra quyết định phục vụ công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Cục Quản lý Tài nguyên nước như: Thu nhận và lưu trữ dữ liệu từ các trạm quan trắc của các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước đảm bảo thuận lợi, hiệu quả, nhanh chóng; Tổng hợp, phân tích và xây dựng các biểu đồ, đồ thị liên quan; Thống kê dữ liệu theo thời gian, loại hình, theo đơn vị hành chính, lưu vực sông; Tìm kiếm và quản lý thông tin; Hiện thị các trạm quan trắc trên bản đồ; Đưa ra cảnh báo, thông báo khi có dấu hiệu chuẩn bị vượt ngưỡng hoặc khi đã vượt ngưỡng quy định; Trích xuất dữ liệu, xây dựng báo cáo về danh sách và thông tin về công trình đã kết nối”- TS. Nguyễn Minh Khuyến chia sẻ!.

Ở lĩnh vực quản lý của mình, TS. Nguyễn Minh Khuyến đã chỉ ra vấn đề về nguồn nước trên các lưu vực sông đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng. Trước thực trạng đó, việc chủ động xây dựng kịch bản nguồn nước là yêu cầu cấp thiết, làm căn cứ để các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên lưu vực sông, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo việc lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Kịch bản nguồn nước, (ví dụ như kịch bản hạn trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình) không chỉ cung cấp thông tin dự báo, cảnh báo nguy cơ hạn hán mà còn hỗ trợ công tác điều hòa, phân phối tài nguyên nước trên lưu vực sông, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng và các nhu cầu thiết yếu khác của người dân.

Ứng dụng công nghệ mới trong nghiên cứu Tài nguyên nước

TS. Nguyễn Anh Đức, Phó Viện trưởng, Viện Khoa học Tài nguyên nước cho rằng, trong thời gian tới với định hướng của Nghị quyết số 57-NQ/TW và hướng dẫn tại Quyết định số 503; với yêu cầu ngày càng cao trong công tác quản lý, bảo vệ nguồn nước nhất là yêu cầu về bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia, phục vụ công tác điều hòa, phân phối tài nguyên nước trên các lưu vực sông; đồng thời với sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ mới trong khoa học công nghệ nói chung và KHCN tài nguyên nước nói riêng, trọng tâm trong nghiên cứu của Viện Khoa học tài nguyên nước sẽ: Hướng trọng tâm nghiên cứu trong giai đoạn tiếp theo là xây dựng các kịch bản điều hành tài nguyên nước, hỗ trợ phân bổ tài nguyên nước, hỗ trợ các vấn đề quản lý mới đưa ra trong Luật Tài nguyên nước 2023; Hướng đến vận hành thời gian thực trong điều tra, đánh giá, dự báo, điều tiết nước, giám sát tài nguyên nước, kiểm soát các hoạt động gây ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, kinh tế tài nguyên nước.

TS. Nguyễn Anh Đức cũng cho biết, song song với đó đẩy mạnh việc ứng công nghệ thông tin, công cụ mô hình toán, tự động hóa và cải tiến công nghệ, hướng đến chuyển đổi số, tăng cường khả năng tiếp cận thông tin của cộng đồng. Nghiên cứu ứng dụng cơ sở khoa học, kỹ thuật hiện đại và số hóa trong quản lý tổng hợp tài nguyên nước và hạch toán tài nguyên nước; tiến hành ước lượng giá trị tài nguyên nước theo từng lưu vực sông và hoàn thiện dần bản đồ giá trị TNN tại Việt Nam.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ viễn thám

Ở nhiệm vụ này, PGS.TS Phạm Minh Hải, Phó Cục trưởng, Cục Viễn thám quốc gia cho rằng, Nghị quyết số 57-NQ/TW là một tín hiệu mạnh mẽ từ Đảng và Nhà nước đối với công tác nghiên cứu khoa học, là cơ hội để đưa nghiên cứu khoa học ra khỏi những thách thức lâu dài, trong đó có vấn đề: tài chính, cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách chưa đủ mạnh để thúc đẩy sáng tạo. Đây là thời cơ về đột phá, chuyển đổi số, chú trọng đến việc ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo,  để giải quyết các vấn đề cấp bách của lĩnh vực viễn thám nói riêng ngành nông nghiệp và môi trường nói chung. Chuyển đổi số không chỉ thay đổi cách thức nghiên cứu, phát triển sản phẩm mà còn giúp các nhà khoa học nghiên cứu phát triển công nghệ viễn thám trong và ngoài Bộ Nông nghiệp và Môi trường dễ dàng tiếp cận với thông tin và tài nguyên nghiên cứu. CSDL viễn thám quốc gia đang được vận hành có đầy đủ tài nguyên về dữ liệu viễn thám đa thời gian, đa độ phân giải, có phạm vi phủ trùm trên đất liền, biển và hải đảo sẵn sàng đáp ứng thực thi các công nghệ số như: Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn, điện toán đám mây, chuỗi khối,... để phục vụ các bài toán tự động hóa, giám sát nhanh, và dự báo của ngành Nông nghiệp và Môi trường.

Bên cạnh đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW đem lại thời cơ về nguồn lực đầu tư tài chính phục vụ phát triển khoa học và công nghệ. Nguồn lực tài chính đầu tư cho công tác nghiên cứu hiện nay luôn bị hạn chế như quá trình đề xuất các nhiệm vụ cấp Quốc gia từ khi đề xuất đến khi được phê duyệt thực hiện kéo dài nhiều năm (2-3 năm), việc thực hiện các đề tài nghiên cứu cấp Bộ thường bị kéo dài, do đó đánh mất tính thời sự của vấn đề cấp bách cần thực hiện từ công tác quản lý nhà nước của lĩnh vực, của ngành; thiếu kinh phí để thực hiện các đề án khoa học lớn trọn vẹn cho từng lĩnh vực,... Thời cơ cho nghiên cứu khoa học khi Nghị quyết số 57-NQ/TW nâng tỷ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) từ ngân sách nhà nước, đổi mới cơ chế - “cởi trói” thực sự cho nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo: Không thể có khoa học mạnh nếu thiếu nguồn lực tương xứng, bởi nghị quyết xác định rõ đầu tư cho khoa học, công nghệ là đầu tư cho phát triển. 

"Trong thời gian tới, đề nghị Bộ xem xét, cho phép triển khai đề án: “Đẩy mạnh ứng dụng viễn thám và trí tuệ nhân tạo trong xây dựng hệ thống giám sát thông minh một số lĩnh vực nông nghiệp và môi trường phục vụ tăng trưởng xanh và phát triển bền vững”, Cục Viễn thám quốc gia đề xuất theo căn cứ công văn số 860/BNNMT-KHCN ngày 09/04/2025 của Bộ Nông nghiệp và môi trường về việc xây dựng kế hoạch, đặt hàng các nhiệm vụ KHCN bắt đầu thực hiện từ năm 2026 theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 193/2025/QH15 và Nghị quyết số 71/NQ-CP”- PGS.TS. Phạm Minh Hải.

Tạo cơ chế, chính sách đột phá để huy động các tổ chức, cá nhân ở khu vực tư nhân tham gia hoạt động nghiên cứu

Ở lĩnh vực môi trường, PGS.TS. Nguyễn Xuân Hải - Phó Cục trưởng, Cục Môi trường cho biết một trong những kết quả nghiên cứu đạt được trong giai đoạn 2011-2024 đó là: Cung cấp các luận cứ khoa học cho việc đề xuất và hoàn thiện khung chính sách, pháp luật; đưa ra các giải pháp công nghệ trong xử lý, quan trắc, giám sát các vấn đề ô nhiễm môi trường. Các Chương trình nghiên cứu đã góp phần quan trọng để thí điểm áp dụng và phát triển công nghệ mới để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường như ô nhiễm môi trường nước, ô nhiễm môi trường không khí, môi trường đất, xử lý chất thải rắn. Thông qua các kết quả nghiên cứu, nhiều mô hình công nghệ tiên tiến như công nghệ xử lý nước thải (Các phương pháp cơ học, hóa học, hóa lý, hóa sinh, sinh học); công nghệ xử lý khí thải với các phương pháp khô (buồng lắng, xyclon, lọc tay áo, lọc tĩnh điện...) và phương pháp ướt (hấp thu, ô xy hóa-khử ...); công nghệ xử lý chất thải rắn (Chôn lấp hợp vệ sinh, đóng rắn, hóa học, sinh học, tái sử dụng…) đã được thử nghiệm, tạo tiền đề cho việc phổ biến, nhân rộng mô hình.

“Từ năm 2011 đến nay, các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học đã hỗ trợ quá trình xây dựng quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật (QCVN, TCVN) trong lĩnh vực môi trường. Hiện nay trong lĩnh vực môi trường đang áp dụng 33 QCVN về chất lượng môi trường xung quanh và chất thải như QCVN về tiếng ồn, độ rung, chất lượng đất, khí thải cho các ngành công nghiệp, QCVN về nước thải cho các ngành công nghiệp (công nghiệp chế biến cao su tự nhiên, chế biến thuỷ sản, giấy và bột giấy, công trình khai thác dầu khí trên biển, cửa hàng kinh doanh xăng dầu, sản xuất thép, chăn nuôi). Việc nghiên cứu cơ sở khoa học cho xây dựng QCVN, TCVN là nội dung quan trọng phục vụ xây dựng, hoàn thiện công cụ quản lý của đơn vị”.- PGS.TS. Nguyễn Xuân Hải thông tin!

PGS.TS. Nguyễn Xuân Hải đã chỉ ra những tồn tại trong hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng KHCN trong lĩnh vực môi trường, cụ thể là chế, chính sách hiện tại chưa bảo đảm và chưa khuyến khích cán bộ phát huy hết tiềm năng, khả năng sáng tạo và tạo động lực để tăng cường nguồn nhân lực KHCN trong lĩnh vực môi trường do chưa có chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài và chế độ lương chưa phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội hiện tại. Bên cạnh đó vấn đề đặt hàng nhiệm vụ khoa học công nghệ chưa có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị đặt hàng là cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị thực hiện là các tổ chức KHCN, vấn đề về cơ chế tài chính, giao quyền tự chủ, giao quyền sở hữu kết quả KHCN có sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Song song với đó là ứng dụng kết quả nghiên cứu, tỷ lệ các kết quả nghiên cứu của các đề tài nói chung và của nhóm các đề tài nghiên cứu về mô hình, công nghệ xử lý môi trường đưa vào áp dụng thực tế chưa cao (đặc biệt là các đề tài kỹ thuật có tính ứng dụng). Kết quả nghiên cứu của hầu hết các đề tài chỉ dừng lại ở việc đề xuất mô hình công nghệ và số ít trong đó được thí điểm triển khai ở quy mô nhỏ.

Một trong số những kiến nghị về lĩnh vực này trong thời gian tới, PGS.TS. Nguyễn Xuân Hải cho rằng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần xem xét, cho triển khai thực hiện một số dự án sản xuất thử nghiệm dựa trên các kết quả nghiên cứu của đề tài là các mô hình, công nghệ, các mẫu thử để hoàn thiện sản phẩm khoa học công nghệ, bảo đảm việc triển khai ứng dụng công nghệ được khả thi, hiệu quả trên tinh thần chấp nhận rủi ro, độ trễ trong nghiên cứu khoa học; chấp nhận đầu tư kinh phí lớn để hướng tới sản phẩm chất lượng cao, phục vụ trực tiêp và hiệu quả cho công tác quản lý môi trường; Tạo cơ chế, chính sách đột phá để huy động các tổ chức, cá nhân ở khu vực tư nhân tham gia hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong xử lý ô nhiễm môi trường, quan trắc môi trường; tạo sự liên kết giữa nhà quản lý, nhà khoa học, nhà trường (Viện, Trung tâm), nhà đầu tư trong phát triển và ứng công nghệ trong xử lý ô nhiễm môi trường, xử lý chất thải thông qua các cơ chế như cơ quan nhà nước đặt hàng nhiệm vụ để giải quyết vấn đề môi trường cụ thể.

Với vai trò Trưởng Tiểu ban Hội thảo chuyên đề 3, TS. Hoàng Văn Thức đã yêu cầu các các chuyên gia, nhà khoa học chỉ rõ đề xuất giải pháp đột phá, những vân đề quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Tựu chung, các nhà khoa học đều có thêm mong muốn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần tìm ra những mảng trống trong chuyển đổi số, ở đó phải ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng, an ninh, bảo mật,.. và cần có hành lang pháp lý kết nối chia sẻ dữ liệu. Bên cạnh đó, Bộ cần có cơ chế đột phá, cơ chế chia sẻ dữ liệu. 

Còn ở lĩnh vực chuyên ngành Đo đạc và Bản đồ, các nhà khoa học đã đưa ra đề cập trong thời gian tới cần ưu tiên 4 vấn đề: (1) nhiệm vụ đột phá trong khai thác, ứng dụng không gian vũ trụ trong ngành nông nghiệp và môi trường; (2) nghiên cứu đột phá trong khai thác biển và đại dương; (3) Thông minh hoá dữ liệu địa không gian; (4) Đột phá trong chuyển đổi số quốc gia.

Kết thúc Hội thảo, TS. Hoàng Văn Thức đã tổng hợp những nội dung cơ bản trong chuyên đề 3, nhận định thực trạng, kiến nghị của các chuyên gia nhà khoa học để báo cáo Bộ trưởng Đỗ Đức Duy và Thứ trưởng Phùng Đức Tiến tại buổi lễ Bế mạc Hội nghị ngay sau đó.

Nghị quyết số 57-NQ/TW đã xác lập 5 quan điểm nền tảng, trong đó đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được coi là động lực chính để thúc đẩy lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất. Đây không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật mà còn là một yêu cầu chính trị - xã hội, đòi hỏi sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và sự tham gia đồng bộ của cả hệ thống chính trị.

Huyền Minh

 

 

 

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Bộ NN&MT: Đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng ngành ở mức cao nhất

Lựa chọn đầu tư mở rộng hoàn chỉnh đoạn tuyến cao tốc phải khoa học, sát thực tiễn, khả thi, hiệu quả

Nuôi, trồng dược liệu dưới tán rừng phải gắn chặt với 'giữ dân, giữ rừng'

Việt Nam - Cuba: Hợp tác nông nghiệp, thủy sản là mũi nhọn

Nông nghiệp

Quảng Bình: Nâng cao giá trị sản phẩm OCOP 3 - 4 sao, hướng đến phát triển bền vững

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức và kỹ năng về chú trọng công tác vệ sinh môi trường trong chăn nuôi

Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản với mô hình xen ghép tôm sú và cá rô phi đơn tính tại Hà Tĩnh

Hành trình kết nối và lan tỏa giá trị OCOP tại miền Trung thân thương của Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Tài nguyên

Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2025 có chủ đề: “Công nghệ xanh để đại dương bền vững”

Chuyển đổi mục đích sử dụng 6,94 ha rừng để thực hiện Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa -Buôn Ma Thuột

Phân cấp, gắn trách nhiệm quản lý tài nguyên khoáng sản

Xây dựng chính sách phân quyền đất đai cho mô hình chính quyền hai cấp

Môi trường

Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý rủi ro lũ lụt: Giải pháp cấp thiết cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Tăng cường hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong quản lý thiên tai: Hướng tới mô hình mẫu phòng, chống sạt lở đất và lũ quét

Bảo đảm môi trường sống trong lành

Bảo tồn nguồn gen vật nuôi, thủy sản là nhiệm vụ chiến lược

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, kiểm ngư: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ là trọng tâm, cốt lõi

Hội thảo Chuyên đề 3: Nhận diện thực trạng nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám

Khoa học công nghệ - Đòn bẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp và môi trường

Dự báo hạn hán, thiếu nước dựa trên công nghệ viễn thám

Chính sách

Tăng tốc hoàn thành mục tiêu hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2025

Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã kiểm tra hiện trường tình hình thực hiện các dự án thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn mới

Nghiên cứu, rà soát kỹ phương án đầu tư đường kết nối Bình Phước - Đồng Nai qua cầu Mã Đà

Phát triển

Kỷ niệm 40 năm thành lập Tạp chí Người Hà Nội và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì

Ngành Nông nghiệp và Môi trường: Tốc độ tăng trưởng trong quý I cao nhất trong những năm gần đây

Phát động Cuộc thi viết “Vượt lên số phận” lần thứ VIII

Long An: Top 2 địa phương cải cách mạnh nhất theo PCI 2005 - 2024

Diễn đàn

Thời tiết ngày 13/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nắng ráo, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao

Thời tiết ngày 12/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ mát dịu, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa to

Thời tiết ngày 11/5: Mưa to trải dài khắp đất nước, nhiều nơi mưa trên 60mm