TS. Đỗ Ngọc Chung: “Tôi muốn biến nghiên cứu khoa học thành sản phẩm phục vụ đời sống”

01/07/2025

TN&MTVới niềm đam mê nghiên cứu bền bỉ và khát vọng đưa khoa học công nghệ vào từng bữa ăn gia đình Việt, từ năm 2014, TS. Đỗ Ngọc Chung đã nghiên cứu và cho ra đời thiết bị làm rau giá sạch GV-102 - một sản phẩm nhỏ gọn nhưng đã chinh phục gần một triệu hộ gia đình. Hành trình hơn một thập kỷ kiên trì sáng chế, cải tiến và lan tỏa thói quen ăn sạch, sống xanh của anh là minh chứng cho sức sống của khoa học ứng dụng “made in Vietnam”.

TS. Đỗ Ngọc Chung - người ‘sạch hóa’ giá đỗ Việt.

Phóng viên (PV): Thưa TS. Đỗ Ngọc Chung, cơ duyên nào đã đưa ông đến với nghiên cứu và cho ra đời thiết bị làm rau giá sạch GV-102?

TS. Đỗ Ngọc Chung: Tôi vốn xuất thân là giảng viên, nhà nghiên cứu và lớn lên từ một nơi chuyên làm giá đỗ. Năm 2013, khi tôi nhận thấy phương pháp mà mọi người làm giá đỗ, tôi nhận ra nhiều bất tiện: đầu tiên là về khoa học, công cụ thì chưa đảm bảo, mà vẫn làm theo truyền thống, điều thứ 2 là đa phần cơ sở sản xuất công nghiệp đều sử dụng hóa chất và thuốc kích thích tăng trường. Làm rau giá rất dễ, nhưng lại vô cùng dễ bị hỏng. Chỉ cần không khí và nước bị nhiễm khuẩn thì rau giá sẽ bị hỏng ngay. Tôi tự hỏi: tại sao không làm ra một thiết bị đơn giản, rẻ tiền nhưng khoa học, hiệu quả mà ai cũng có thể dùng, cho ra giá đỗ sạch, an toàn? Từ đó, tôi bắt tay nghiên cứu, thử nghiệm, rồi hoàn thiện sản phẩm GV-102.

Ký kết hợp tác - bước đi khẳng định cam kết vì giá đỗ sạch cho người Việt

PV: Trong suốt quá trình từ ý tưởng đến gần một triệu thiết bị tiêu thụ, ông gặp khó khăn gì lớn nhất?

TS. Đỗ Ngọc Chung: Khó khăn lớn nhất không chỉ nằm ở công nghệ hay vốn liếng, mà chính là thay đổi thói quen của người tiêu dùng. Khi tôi mới giới thiệu thiết bị làm rau giá sạch, nhiều người còn nghi ngờ: “Liệu một chiếc hộp nhựa nhỏ có thực sự cho ra giá đỗ sạch, ngon, an toàn hay không?” Sản phẩm thì mới, nhưng thói quen tiêu dùng đã hình thành hàng chục năm rất khó thay đổi trong một sớm một chiều. Đặc biệt thành phẩm làm ra thì thường gầy hơn và có rễ dài hơn so với giá có hóa chất, nhưng vốn lại quen được sử dụng lâu năm rồi.

Ngoài ra, vì đây là thiết bị nhỏ, giá thành rẻ, tôi phải tự xoay xở để sản xuất, tiếp thị, phân phối sao cho tiết kiệm chi phí mà vẫn đảm bảo chất lượng. Có giai đoạn tôi mang mẫu thiết bị đi khắp các hội chợ, phiên chợ quê, tự mình đứng hướng dẫn bà con cách làm giá đỗ. Tôi cũng phải trực tiếp giải thích, minh chứng bằng sản phẩm thật để người tiêu dùng yên tâm.

Một trở ngại nữa là làm sao để duy trì động lực. Đã có lúc tôi cũng nản, vì tiêu thụ chậm, lợi nhuận thấp, lại còn bị làm nhái. Nhưng điều giữ tôi lại là niềm tin vào giá trị sản phẩm rằng nó thực sự mang đến điều tốt cho sức khỏe gia đình Việt. May mắn là khi những khách hàng đầu tiên trải nghiệm và thấy hiệu quả, họ tự lan tỏa bằng chính lời giới thiệu chân thành. Đó chính là “sợi dây” quan trọng nhất giúp tôi vượt qua mọi khó khăn ban đầu.

Biểu trưng ‘Sứ mệnh – Sạch hóa giá đỗ Việt’: Khát vọng nâng tầm nông sản sạch, vì sức khỏe cộng đồng.

PV: Là người đam mê sáng chế, ông quan niệm thế nào về con đường thương mại hóa các nghiên cứu khoa học ở Việt Nam?

TS. Đỗ Ngọc Chung: Theo tôi, nghiên cứu khoa học chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được ứng dụng vào cuộc sống, giải quyết những vấn đề cụ thể mà xã hội đang cần. Ở Việt Nam, chúng ta có rất nhiều công trình nghiên cứu hay, nhiều nhà khoa học giỏi, nhưng việc thương mại hóa sản phẩm lại chưa được quan tâm đúng mức hoặc còn nhiều rào cản.

Một rào cản lớn là sự kết nối giữa nhà nghiên cứu với doanh nghiệp và thị trường còn hạn chế. Nhiều người làm nghiên cứu rất giỏi chuyên môn nhưng không có điều kiện hoặc không quen với việc làm thương hiệu, tiếp thị, kêu gọi đầu tư. Trong khi đó, doanh nghiệp lại thiếu niềm tin vào các sản phẩm “made in Vietnam” hoặc e ngại rủi ro khi đầu tư vào các ý tưởng còn mới. Vì vậy, nếu chúng ta không có cơ chế hỗ trợ tốt, thì những công trình nghiên cứu dễ bị “nằm ngăn kéo”.

Bản thân tôi luôn quan niệm rằng, mỗi sáng chế phải tính đến yếu tố khả thi: chi phí sản xuất ra sao, giá thành đến tay người tiêu dùng có phù hợp không, quy trình sử dụng có đơn giản, tiện lợi không. Người Việt có quyền được hưởng những sản phẩm công nghệ phù hợp với thu nhập, thói quen của mình. Và để làm được điều đó, nhà khoa học phải sẵn sàng bước ra khỏi phòng thí nghiệm, bắt tay với doanh nghiệp, thậm chí tự học cách làm kinh doanh.

Tôi tin rằng, nếu mỗi công trình nghiên cứu đều gắn chặt với nhu cầu thực tế, thì con đường thương mại hóa sẽ rộng mở hơn. Khi người tiêu dùng tin dùng, sản phẩm bán được, thì nghiên cứu sẽ tự có “đất sống” để tiếp tục phát triển. Đó chính là động lực quan trọng để khoa học công nghệ Việt Nam đi ra thị trường, không chỉ phục vụ trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu.

Trực tiếp giới thiệu quy trình sản xuất - TS. Đỗ Ngọc Chung cùng cộng sự biến ý tưởng khoa học thành sản phẩm hữu ích.

PV: Sau thành công của GV-102, ông đang ấp ủ hướng đi nào tiếp theo?

TS. Đỗ Ngọc Chung: GV-102 mới chỉ là bước khởi đầu trong hành trình tôi muốn đồng hành cùng người tiêu dùng Việt hướng tới lối sống an toàn, tiết kiệm và bền vững. Sau khi sản phẩm này được đón nhận, tôi càng có thêm động lực để nghiên cứu những thiết bị đơn giản, giá thành rẻ, phù hợp với thói quen sinh hoạt của các gia đình, đặc biệt là ở đô thị.

Hiện tôi đã phát triển thêm các phiên bản cải tiến của thiết bị làm rau giá, để người dùng có thể làm được nhiều loại rau mầm khác nhau, vừa đa dạng dinh dưỡng, vừa dễ chăm sóc. Tuy nhiên, sau thời gian phát triển, tiếp cận với khách hàng thì tôi nhận thấy nhu cầu của khách hàng đều cần có những sản phẩm sạch, chất lượng, nhưng thời gian để tự làm còn hạn chế, có nhiều cản trở khiến họ chỉ làm được lúc đầu, sau rồi cũng làm ít hơn, kém hơn. Thêm nữa, sau khoảng 20 năm chúng ta phải tiếp xúc với rất nhiều thực phẩm bẩn, có nhiễm hóa chất,… và hậu quả là rất nhiều người đã mắc bệnh, đặc biệt là bệnh về tiêu hóa,…

Chính vì vậy tôi đã nghiên cứu và mở rộng quy mô phát triển với mục tiêu đưa các sản phẩm có giá trị, sạch tới tay người tiêu dùng. Về giá đỗ, hiện tôi đã làm được các nhà máy sản xuất sạch, đạt chuẩn ISO tại Hà Nội, Bắc Ninh và Bình Dương. Trong thời gian tới tôi sẽ tiếp tục mở các nhà máy ở khắp các tỉnh thành trên cả nước. Hơn thế, tôi nhận thấy giá đỗ nói riêng và rau mầm nói chung là loại thực phẩm rất tốt cho con người, có nhiều giá trị dinh dưỡng hơn rau trưởng thành, nên tôi đã nâng tầm, sáng tạo thêm nhiều sản phẩm phát sinh từ giá đỗ với giá trị dinh dưỡng, công dụng tốt cho con người. Hiện nay, các nhà máy giá đỗ sạch đều sản xuất thêm 3 sản phẩm khác như: Kim chi giá, Trà vỏ đỗ xanh và Nước uống lên men Doza Kombucha rất tốt cho sức khỏe.

Hiện nay, tôi đã tạo được hệ sinh thái khép kín cho các sản phẩm sạch từ giá đỗ. Mục tiêu của tôi không chỉ là bán một chiếc hộp làm giá, một gói giá đỗ mà là trao cho người dùng một giải pháp sống khỏe, sống sạch, bền vững và tiết kiệm.

Tất nhiên, con đường phía trước còn rất nhiều thử thách từ cải tiến công nghệ, bảo vệ sở hữu trí tuệ đến mở rộng kênh phân phối. Nhưng tôi tin nếu sản phẩm thực sự hữu ích, giải quyết được đúng vấn đề của người dân, thì dù nhỏ bé đến mấy, nó cũng sẽ tìm được chỗ đứng xứng đáng.

PV: Vậy ông có điều gì muốn nhắn gửi tới các bạn trẻ đam mê nghiên cứu, khởi nghiệp từ khoa học?

TS. Đỗ Ngọc Chung: Tôi luôn tin rằng, các bạn trẻ Việt Nam không hề thiếu đam mê, không thiếu ý tưởng hay, chỉ đôi khi chúng ta còn thiếu niềm tin vào con đường mình đi và thiếu kiên nhẫn để theo đuổi nó đến cùng. Tôi mong các bạn trẻ hãy mạnh dạn giữ cho mình một ước mơ dù ban đầu nó rất nhỏ, rất đời thường - vì mọi sáng chế lớn đều bắt đầu từ nhu cầu giản dị quanh ta.

Điều quan trọng là phải học cách biến ý tưởng thành sản phẩm thật. Nghiên cứu khoa học sẽ không còn nằm trên giấy nếu ta chủ động tìm cách thử nghiệm, đưa ra thị trường, lắng nghe phản hồi rồi cải tiến. Đừng sợ thất bại, vì chính những thất bại đầu tiên sẽ cho ta bài học quý giá mà không trường lớp nào dạy được.

Tôi cũng muốn nhắn gửi rằng, các bạn đừng ngại chia sẻ ý tưởng của mình. Một sáng chế hay không thể thành công nếu chỉ làm một mình. Hãy tìm đồng đội, tìm cố vấn, tìm doanh nghiệp đồng hành, mạnh dạn gõ cửa các quỹ hỗ trợ, các vườn ươm khởi nghiệp. Sự kết nối và hợp tác sẽ giúp các bạn rút ngắn rất nhiều thời gian đưa sản phẩm từ phòng thí nghiệm ra thị trường.

Và cuối cùng, tôi hy vọng các bạn trẻ làm khoa học hãy đặt câu hỏi lớn hơn là “mình có thể bán được gì?”, mà hãy bắt đầu từ “sản phẩm này có giúp ích gì cho xã hội, cộng đồng?”. Khi chúng ta thực sự làm ra thứ có ích, sớm muộn thị trường cũng sẽ đón nhận. Thành công không đến sau một đêm nhưng nếu đủ bền bỉ và tử tế với sản phẩm của mình, tôi tin các bạn sẽ gặt được quả ngọt.

TS. Đỗ Ngọc Chung vinh dự nhận Bằng khen vì những đóng góp xuất sắc trong nghiên cứu khoa học.

Hành trình “chắp cánh” cho rau giá đỗ sạch của TS. Đỗ Ngọc Chung là minh chứng cho tinh thần đổi mới sáng tạo gắn liền với đời sống. Hy vọng những thiết bị nhỏ bé nhưng hữu ích này sẽ tiếp tục lan tỏa, truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ dám mơ và dám biến nghiên cứu thành hiện thực.

Hồng Minh (thực hiện)

 

 

 

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Việt Nam - Thụy Sĩ hợp tác xây dựng kế hoạch hành động xanh

Bộ Nông nghiệp và Môi trường tri ân USAID, cam kết lan tỏa giá trị hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ

Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng - Tiếp xúc cử tri tỉnh Quảng Trị: Khẩn trương, quyết liệt triển khai các nhiệm vụ trọng tâm sau sáp nhập

Tạo hành lang thông thoáng cho thương mại nông sản Italia sang Việt Nam

Nông nghiệp

Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp cùng FAO tổ chức Diễn đàn trao đổi kinh nghiệm cấp cao giữa các khu vực về mô hình OCOP

Tăng sức cạnh tranh cho nông sản mùa vụ

Phát triển OCOP thành thương hiệu Việt Nam, đạt chuẩn quốc tế trên thị trường toàn cầu

Đổi mới sáng tạo trong khuyến nông bắt nhịp mô hình chính quyền hai cấp

Tài nguyên

Quản lý tài nguyên khoáng sản tại Hà Tĩnh: Thực trạng và giải pháp tháo gỡ từ thực tiễn, chính sách

Điện Biên: Kỳ vọng đổi mới từ Luật Địa chất - Khoáng sản năm 2024

Lạng Sơn siết chặt quản lý khoáng sản: Từ thực tiễn địa phương đến kỳ vọng Luật mới

Mức thu bổ sung 5,4% tiền sử dụng đất sẽ tạo gánh nặng cho doanh nghiệp

Môi trường

Bài 2: Dấu ấn cấp 4 chứng chỉ quản lý rừng bền vững - Một bước tiến đột phá của Kiểm lâm Đình Lập

Kích hoạt các kịch bản ứng phó bão, lũ

Kiểm soát ô nhiễm không khí: Không thể chỉ dừng ở khuyến cáo

Hạt Kiểm lâm Đình Lập: Điểm sáng trong phát triển lâm nghiệp bền vững ở Lạng Sơn

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Nghiên cứu cơ bản làm nền tảng khoa học vững chắc cho phòng chống thiên tai

5 Luật mới định hình tương lai khoa học công nghệ Việt Nam

Danh sách thành viên 28 Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành năm 2025

Trường Đại học TN&MT TP. Hồ Chí Minh: Mở cánh cửa tương lai với 20 ngành đào tạo, 6 phương thức xét tuyển linh hoạt

Chính sách

Công tác đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP được chia thành 02 cấp

Kiện toàn chức năng thanh tra ngành nông nghiệp và môi trường

Tiêu chí xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh

Quy định về việc lập nhiệm vụ quy hoạch đô thị và nông thôn

Phát triển

Bắc Ninh thắp sáng hành trình mới từ cội nguồn văn hóa

Từ nền tảng nội lực đến khát vọng “kỳ lân Việt”

Thế hệ trẻ trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn với sứ mệnh chung tay quản trị và phát triển bền vững tiểu vùng Lan Thương - Mê Kông

Mở rộng cánh cửa đại học xanh: Chiến lược tuyển sinh 2025 và tầm nhìn phát triển của Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh

Diễn đàn

Thời tiết ngày 8/7: Vùng núi Bắc Bộ, Cao nguyên Trung Bộ và Nam Bộ cục bộ mưa to

Thời tiết ngày 7/7: Bắc Bộ Bắc Bộ nhiệt độ tăng nhẹ, có nơi nắng nóng, chiều tối mưa dông

Thời tiết ngày 6/7: Bắc Bộ có nơi nắng nóng, chiều tối mưa dông

Thời tiết ngày 5/7: Nhiều khu vực trên cả nước có mưa rào và dông