Phát triển bền vững kinh tế biển và vai trò của báo chí truyền thống

10/02/2025

TN&MTBiển là cái nôi của sự sống, là nhân tố hết sức quan trọng đảm bảo tính bền vững của quá trình phát triển kinh tế và xã hội. Nhận thức về biển và phát triển bền vững kinh tế biển (KTB) trên thế giới ngày càng rõ ràng hơn với nhiều chuyển biến tích cực qua thời gian. Chiến lược biển của nhiều quốc gia đã nhấn mạnh tới nội hàm quan trọng là phát triển kinh tế biển và các thể chế quản lý biển. Việt Nam là một quốc gia biển với đường bờ biển dài 3.260 km gồm nhiều đảo và quần đảo, có trữ lượng lớn về hải sản, khoáng sản, dầu mỏ, có vị trí chiến lược về giao thông, quốc phòng,… Biển, đảo nước ta có tiềm năng rất lớn về phát triển kinh tế. Đặc biệt, trong Thế kỷ XXI-Thế kỷ của biển và đại dương - Thế kỷ tiến ra biển của loài người thì Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc phát huy thế mạnh của biển để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một trong những cách để các quốc gia trên thế giới hầu hết sử dụng nhằm minh chứng và khẳng định chủ quyền biển đảo là đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về

Phát triển bền vững kinh tế biển và vai trò của báo chí truyền thống

Nhận thức chung về biển, đảo trên thế giới

Biển và các vùng ven biển là những bộ phận không thể tách rời của hệ sinh thái toàn cầu, đóng vai trò chủ chốt đảm bảo tính bền vững của quá trình phát triển. Trên thực tế, biển đang bao phủ hơn 2/3 diện tích bề mặt và chứa trong đó 97% tổng lượng nước của Trái đất. Biển được nhìn nhận là cái nôi của sự sống và là cấu phần hết sức quan trọng để tiếp tục duy trì sự sống của loài người. Trong mối liên hệ với quá trình phát triển kinh tế- xã hội hiện nay của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đã có sự thừa nhận rộng khắp rằng, biển đóng vai trò quan trọng trong xóa đói, nghèo và tạo ra môi trường sống, cũng như công việc có thu nhập bền vững cho con người. Trong bối cảnh mới của thế giới với nhiều biến động lớn cả về môi trường tự nhiên và xã hội, thì mối liên hệ giữa biển, việc thực thi các chiến lược, chính sách về biển của các quốc gia để đảm bảo phát triển bền vững cần được nhìn nhận một cách thấu đáo hơn. 

Vấn đề về biển và vai trò của biển có tầm quan trọng đối với sự sống và đối với phát triển kinh tế- xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới đã được thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên, những hiểu biết của con người về biển vẫn còn rất hạn chế, cho dù những tiến triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ đã cung cấp nhiều công cụ, phương tiện hiện đại hơn để nghiên cứu, tìm hiểu về biển. Ngoài ra, cho dù con người ngày càng có nhiều khám phá mới, có nhiều thông tin hơn về biển, môi trường biển, nhưng những kiến thức mới này vẫn rất ít được phổ biến đến với công chúng và chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, dẫn đến hệ quả là, mối liên hệ đặc biệt giữa biển và vấn đề phát triển bền vững, nhất là ở các nước đang phát triển ven biển, ở chừng mực nhất định vẫn chưa được chú ý đánh giá thật đầy đủ. 

Tại hội nghị thượng đỉnh Trái đất lần đầu tiên về Môi trường và Phát triển do Liên hợp quốc tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 đã thừa nhận rằng, sự thiếu hụt thông tin về biến động trong các hệ thống của Trái đất (bao gồm biến đổi khí hậu, thay đổi môi trường, về thổ nhưỡng,...) đang gây ra những hậu quả đáng quan ngại tới sự phát triển của các quốc gia. Những năm sau đó, mọi việc trở nên có tiến triển tích cực và trong các vấn đề toàn cầu nói chung, vấn đề biển và môi trường biển bắt đầu được quan tâm, chính phủ nhiều quốc gia trên thế giới đưa ra các chương trình hành động để đảm bảo phát triển bền vững. Tiếp đến, kể từ hội nghị Rio+20 tổ chức năm 2020 đến nay, nhận thức chung của các quốc gia về vai trò của biển tiếp cận từ góc độ tự nhiên cũng như xã hội đều có sự cải thiện đáng kể. Chính sách của các nước, nhất là các nước đang phát triển khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều ghi nhận rằng, nếu không giám sát một cách lâu dài với tầm nhìn dài hạn đối với các hệ thống sinh thái toàn cầu thì các nhà lập chính sách sẽ không thể có được các thông tin hữu ích, phù hợp để từ đó thông qua các quyết sách đúng đắn phục vụ phát triển bền vững. Các nhà lãnh đạo thế giới đã thừa nhận sự cần thiết phải khởi động và điều phối, duy trì một mạng lưới quan trắc toàn cầu về các vấn đề môi trường và phát triển bền vững. Hệ thống quan trắc đại dương toàn cầu (GOOS) là một cấu phần không thể thiếu nhằm tạo thuận lợi cho sự hợp tác giữa các quốc gia có biển để giải quyết các vấn đề toàn cầu. Những diễn biến mới đây cho thấy các quốc gia có sự nhất trí cao hơn nữa khi chia sẻ nhận thức chung về biển và các mục tiêu về biển. Các mục tiêu phát triển bền vững mà đại hội đồng Liên hợp quốc cần xem xét, thông qua với các hành động cụ thể, trong đó đã đưa ra các khái niệm cơ bản, sứ mệnh cần thực hiện để các mục tiêu phát triển bền vững (SDGS) phải đồng bộ và gắn kết với chương trình nghị sự về phát triển sau năm 2015 của Liên hợp quốc. Các mục tiêu phát triển bền vững yêu cầu phải “Bảo tồn và sử dụng một cách bền vững các nguồn lực của biển và đại dương để phát triển bền vững”. Các mục tiêu phát triển bền vững khác thuộc chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững. Như vậy, nhận thức của các quốc gia trên thế giới về biển và yêu cầu phải khai thác, sử dụng các nguồn lực từ biển một cách bền vững đã có nhiều chuyển biển tích cực trong những năm gần đây. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, yêu cầu phải tiếp cận tới biển, các nguồn lực của biển và các hoạt động kinh tế- xã hội khác đã tạo sức ép rất lớn tới các hệ thống sinh thái biển từ đánh bắt cá quá mức đến khai thác tài nguyên biển thiếu bền vững, hủy hoại các vùng bờ biển và vấn đề ô nhiễm môi trường,… Cho đến nay, khuôn khổ hợp tác của Liên hợp quốc vẫn được nhìn nhận như thể chế đa phương quan trọng nhất để điều phối hoạt động quản lý biển và việc các quốc gia đã thống nhất được với nhau về một mục tiêu phát triển bền vững dành riêng cho biển và bờ biển là minh chứng tốt cho thấy những chuyển biến thực sự từ nhận thức tới hành động thực tiễn. 

Phát triển bền vững kinh tế biển và vai trò của báo chí truyền thống

Phát triển bền vững kinh tế biển, đảo và quản lý biển, đảo

Từ sau Hội nghị Rio+20 khi Liên hợp quốc và các quốc gia thành viên có những động thái mạnh mẽ hơn, đưa ra các cam kết rõ ràng hơn về các mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có mục tiêu liên quan tới biển thì vấn đề phát triển bền vững biển đã được nhìn nhận một cách nghiêm túc. Các thách thức lớn mang tính toàn cầu trong lĩnh vực này (như vấn đề ô nhiễm môi trường biển, suy thoái hệ sinh thái biển, an ninh hàng hải,... đã được đặt vấn đề một cách mạnh mẽ hơn và đòi hỏi cộng đồng quốc tế có hành động quyết liệt hơn để phối hợp giải quyết. Thực tế các mục tiêu phát triển của Liên hợp quốc về bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương cũng từng bước được cụ thể hóa trong chiến lược biển của nhiều quốc gia. Kinh tế biển và quản lý biển là các nội hàm quan trọng để các quốc gia thực thi chính sách phát triển bền vững. 

Về quản lý biển, để có được nền kinh tế biển bền vững cũng phải được đặt ra một yêu cầu quan trọng hàng đầu. Nhiệm vụ quản lý biển cần được thực hiện bởi các thể chế quản lý phù hợp. Tất cả các quốc gia có biển đều có các cơ quan quản lý biển để thực hiện các nhiện vụ khác nhau liên quan tới biển. Trong công tác quản lý biển, Liên hợp quốc đã thông qua các cơ chế đa phương và đề xuất một khuôn khổ chung cho công tác quản lý biển của các cấp quốc gia với các yêu cầu chủ yếu bao gồm: (1) Lợi ích về kinh tế và xã hội cho các thế hệ hiện tại và tương lai, đóng góp cho an ninh lương thực, xóa nghèo, bảo đảm sinh kế, thu nhập, việc làm, sức khỏe và ổn định chính trị; (2) Phục hồi, bảo vệ và duy trì đa dạng sinh học biển, khả năng tái tạo nguồn lợi biển, các chức năng cơ bản của hệ sinh thái cùng các giá trị sẵn có của biển; (3) Sử dụng các công nghệ sạch, phát triển năng lượng tái tạo để đảm bảo sự ổn định kinh tế và xã hội cùng việc khai thác, sử dụng các nguồn lợi từ biển trong giới hạn cho phép; (4) Quản lý biển bằng các thể chế công với sự tham gia đầy đủ của khối tư nhân nhằm đảm bảo tính bao trùm, thông tin đầy đủ, minh bạch và có trách nhiệm giải trình, tiếp cận đa ngành, liên ngành với tầm nhìn dài hạn.

Phát triển kinh tế biển, đảo ở Việt Nam

Trong bối cảnh chung của thế giới và khu vực khi nhận thức về biển, tầm quan trọng của biển và kinh tế biển đang ngày càng gia tăng và định hình rõ hơn. Từ đó, vấn đề kinh tế biển, đảo của Việt Nam cũng đã được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta. Cần phải nhìn nhận rằng, Việt Nam là một quốc gia biển với hàng nghìn năm lịch sử phát triển gắn với biển. Biển Đông và tầm quan trọng của biển, đảo đã ăn sâu vào tâm thức của đại đa số người Việt Nam từ rất lâu. Việt Nam có diện tích đất liền khoảng 332.000 km2, chiều dài bờ biển 3.260 km, như vậy cứ mỗi 100 km2 diện tích lãnh thổ thì Việt Nam có gần 1 km chiều dài bờ biển. Đây là con số thuộc loại cao hàng đầu thế giới góp phần khẳng định rằng Việt Nam thực sự là quốc gia biển và có nhiều tiềm năng, lợi thế từ biển. Trong những năm gần đây nhận thức được tầm quan trọng của biển đối với đất nước đó là đưa ra nhiều chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển. Ngày 9/2/2007, Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thông qua Nghị quyết 09-NQ/TW về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu quan trọng nhất là phấn đấu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh từ biển, làm giàu từ biển, đảm bảo vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sau hơn 10 năm tiếp theo, các nội dung lớn trong Chiến lược biển Việt Nam đã từng bước được thực hiện hóa với các tiến triển tương đối đồng bộ xét từ góc độ đảm bảo an toàn, an ninh trên biển để phát triển bền vững dựa vào biển, phát huy thế mạnh của một quốc gia có diện tích biển lớn gấp 3 lần diện tích đất liền. Một trong những biện pháp rất quyết liệt là việc ban hành và thực hiện Nghị định 67/2014/ NĐ-CP ngày 7/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản. Nghị định đã quy định về nhiều biện pháp hỗ trợ về đầu tư, tín dụng, bảo hiểm, chính sách ưu đãi thuế và một số chính sách khác nhằm phát triển thủy sản với trọng tâm là, nâng cấp khai thác hải sản đầu tư cho các đội tàu được đóng mới, nâng cấp việc khai thác hải sản, đánh bắt xa bờ. Trong các lĩnh vực khác như phát triển các khu kinh tế ven biển, đô thị biển, du lịch biển,... cũng đã có nhiều chính sách lớn được thực hiện, điển hình là Quyết định số 351/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/3/2018 phê duyệt Chương trình mục tiêu đầu tư hạ tầng khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2016- 2020.

Sau hơn 10 năm thực hiện nghị quyết 09, tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XII của Đảng (10/2018) đã tổng kết đánh giá toàn diện về việc thực hiện Chiến lược biển và công bố Nghị quyết mới về biển có tên gọi “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến năm 2045’’. Đây là những chủ trương lớn thể hiện tầm nhìn dài hạn của Việt Nam trong việc khai thác hợp lý các nguồn lực từ biển để phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước. Nhiều quan điểm về cách đặt vấn đề mới được nêu ra trong chiến lược của Việt Nam, đặc biệt là cách nhìn nhận tổng thể và dài hạn về biển, phát triển kinh tế biển phải được nhìn nhận trong không gian 3 chiều: Mặt biển, đáy biển, không gian trên biển. Cần phải vươn xa tới đại dương, nhưng đồng thời cũng cần phải đặc biệt chú trọng tới quản lý bờ biển vì xét đến cùng, mọi hoạt động vươn ra biển đều xuất phát từ bờ biển và bờ biển Việt Nam cần được sử dụng để tạo thuận lợi nhất cho chính sách hướng biển.

Việc phát triển kinh tế biển nước ta hiện nay có thể nhận diện từ một số kết quả quan trọng đã đạt được như sau: 

Thứ nhất, kinh tế ven biển và thuần biển đã có đóng góp quan trọng vào tổng GDP của cả nước, thu nhập bình quân của người dân ven biển đang tăng nhanh. Số liệu thống kê cho biết, trong 10 năm gần đây, đóng góp của 28 tỉnh, thành phố ven biển vào GDP cả nước luôn đạt trên 60%, trong đó có sự tham gia của các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển. Ngoài ra, đóng góp của khu kinh tế thuần biển cũng đạt được khoảng 10% GDP cả nước. Đặc biệt, du lịch biển và kinh tế đảo đã thu hút nhiều nhà đầu tư lớn cả trong nước và nước ngoài, góp phần nâng cao một bước chất lượng hạ tầng kinh tế biển và tăng doanh thu từ các hoạt động này, góp phần quan trọng cho đảm bảo quốc phòng, an ninh và đảm bảo chủ quyền quốc gia.

Thứ hai, các tỉnh, thành phố ven biển đã có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh và hình thành các hoạt động kinh tế biển gắn với thu hút mạnh đầu tư và du lịch. Tổng vốn đầu tư vào 28 tỉnh, thành phố ven biển luôn đạt khoảng 50% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trong suốt giai đoạn 2007- 2017. Cùng với đó, lượng khách du lịch vào Việt Nam tăng rất nhanh qua các năm và một số bộ phận lớn khách quốc tế đến Việt Nam đều gắn với các hoạt động du lịch biển.

Thứ ba, đã hình thành và phát triển được nhiều các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển để tạo động lực mạnh hơn nữa cho phát triển kinh tế biển. Tính đến hết năm 2017, cả nước có 17 khu kinh tế ven biển với tổng diện tích 845.000 ha. Ngoài ra, cả nước còn có 58 khu công nghiệp tập trung ven biển với tổng diện tích đất công nghiệp 13.600 ha, chiếm 36,5% diện tích đất công nghiệp. Kinh tế biển gắn với phát triển các ngành công nghiệp đã góp phần quan trọng đảm bảo tính bền vững và đem lại giá trị cao cho nền kinh tế nước ta.

Phát triển bền vững kinh tế biển và vai trò của báo chí truyền thống

Vai trò của báo chí truyền thông về phát triển nhanh, bền vững kinh tế biển, đảo

Thời gian qua, báo chí đã tham gia tích cực và có hiệu quả trong việc tuyên truyền về vị trí chiến lược của biển, đảo Việt Nam. Đặc biệt là thông tin nhiều vấn đề về phát triển kinh tế biển, đảo, giúp Nhân dân hiểu được chiến lược biển, nắm được tình hình thời tiết, thiên tai, chủ quyền lãnh thổ trên biển Việt Nam. Để phát huy thế mạnh của mình, báo chí cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ cơ bản sau:

Thứ nhất, báo chí cần thông tin đến công chúng những thông tin nói chung và thông tin về biển, đảo nói riêng. Báo đài trung ương và địa phương kịp thời thông tin tuyên truyền, phổ biến, giải thích chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về chính sách phát triển đánh bắt hải sản, hỗ trợ khai thác thủy hải sản biển, phát triển giao thông biển,… Cùng với đó, báo chí cần phản ánh những hoạt động của người dân trong chế biến, nuôi trồng thủy hải sản; những kiến thức cơ bản về Luật Biển; thông tin về lực lượng hải quân- cảnh sát biển,… Đây là những thông tin quan trọng, cần thiết giúp cho các hoạt động kinh tế biển phát triển, duy trì bền vững, lâu dài cho ngư dân sống bám biển, đảm bảo phát triển kinh tế cho các địa phương và cả nước.

Thứ hai, báo chí truyền thông tăng cường tuyên truyền phát triển bền vững kinh tế biển gắn với phát triển sinh thái biển xanh và đa dạng sinh học trên các hệ sinh thái biển. Những thông tin về bảo vệ hệ sinh thái xanh của biển, đảo góp phần nâng cao nhận thức của người dân về thuận lợi và khó khăn đối với vùng biển nước ta nói chung và vùng biển ngư dân đang hoạt động kinh tế nói riêng. Báo chí thường xuyên cung cấp những tin tức, dự báo về tình hình biến đổi khí hậu, cảnh báo thiên tai bão, lũ, sóng thần,…) giúp cho người dân kịp thời có những giải pháp trú đậu an toàn trên biển; đặc biệt, đối với những vùng nhân dân chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu cực đoan những thông tin báo chí góp phần đưa ra giải pháp giúp người dân có cách ứng xử và đối phó đúng đắn với điều kiện thời tiết cụ thể.

Thứ ba, báo chí truyền thông cần cập nhật tin tức liên quan đến KHCN về phát triển KTB cho người dân; cung cấp những phát minh, sáng kiến về KHCN, sản xuất hoạt động KTB từ những người dân, chuyên gia, nhà khoa học đề xuất; kinh nghiệm sáng tạo của người dân và những hiểu biết của nhà báo về hoạt động KTB; đẩy mạnh phát triển KTB dựa trên KHCN đem lại năng suất cao trong phát triển KTB, đồng thời tiết kiệm thời gian, công sức của ngư dân.

Thứ tư, báo chí truyền thông tập trung tuyên truyền phát triển tổng hợp kinh tế của cả nước, trong đó mũi nhọn là phát triển KTB - khai thác thế mạnh đường bờ biển dài của nước ta,... Chú trọng phát triển KTB gắn với phát triển QP- AN, giữ vững chủ quyền biển đảo; phát huy hiệu quả chiến lược KT - XH trên đảo, quần đảo, trên biển của hộ ngư dân; đẩy mạnh phát triển nguồn lao động để khai thác hiệu quả và tối đa những tiềm năng biển đảo; tăng cường cơ sở vật chất - cơ sở hạ tầng của từng địa phương, cũng như của ngư dân, tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tốc độ sản xuất dân sinh trên biển, hải đảo, đồng thời giải quyết tốt những vấn đề xã hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của ngư dân.

Một số giải pháp

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân về vai trò, vị trí chiến lược của biển, đảo Việt Nam trong phát triển bền vững KTB của Tổ quốc. Báo chí truyền thông cần đẩy mạnh tuyên truyền hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng, các văn bản pháp luật về biển, đảo của Nhà nước, trong đó có Luật Biển Việt Nam, nội dung cơ bản Công ước về Luật Biển 1982 để tạo sự đồng thuận trong xã hội. Theo đó, báo chí cần tuyên truyền về xây dựng mô hình quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vùng ven biển trong ngư dân, những người lao động trên biển, nâng cao trách nhiệm, tình cảm của mọi tầng lớp nhân dân đối với cán bộ, chiến sỹ đang ngày đêm làm nhiệm vụ phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Hai là, tuyên truyền và nhân rộng các nhân tố mới điển hình trong phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống vùng biển, ven biển, gắn với đảm bảo giữ vững quốc phòng, an ninh và chủ quyền các vùng biển đảo; giới thiệu những thành tựu phát triển KTB, đảo, những thành tựu hợp tác quốc tế về biển. Đồng thời đối với nhà báo cần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng tác nghiệp cho phóng viên, biên tập viên,… Xây dựng đội ngũ cộng tác viên tích cực tham gia các vấn đề liên quan đến KTB Việt Nam; có chiến lược xây dựng tin, bài, chương trình phát thanh- truyền hình và các sản phẩm truyền thông về phát triển KTB phù hợp với đường lối chủ trương của Đảng trong phát triển KTB.

Ba là, tuyên truyền, phổ biến, chuyển giao tiến bộ KHCN, những kinh nghiệm tốt ứng dụng vào nuôi trồng, đánh bắt, khai thác thác nguồn lợi thủy, hải sản phổ biến kiến thức về tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, về thông tin và dự báo thời tiết, về phòng chống thảm họa thiên tai, biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng cũng như bảo vệ môi trường biển; phát triển KHCN biển.

Bốn là, đấu tranh với các hành động của nước ngoài xâm phạm chủ quyền vùng biển, thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; các hành vi và hoạt động sai trái, tiêu cực trên biển, đảo; phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị xuyên tạc quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, thông tin đối ngoại, làm cho bạn bè và dư luận quốc tế hiểu được lập trường chính nghĩa của Việt Nam, những cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử và thực tiễn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa cũng như chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề Biển Đông, tạo sự đồng tình và ủng hộ của dư luận quốc tế.

Năm là, đẩy mạnh tuyên truyền về lòng yêu nước, yêu Biển Đông trong trường học. Báo chí cần dành những trang viết, cuộc thi về biển, đảo thân yêu trong trường học đối với đối tượng là học sinh, sinh viên. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc bồi dưỡng lòng yêu nước cũng như lòng yêu biển, đảo cho thế hệ trẻ Việt Nam. Thông qua các cuộc thi trên báo chí, trong nhà trường để các em hiểu thêm về biển, đảo truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha ta, được bày tỏ quan điểm, ý kiến, trách nhiệm của mình trong việc giữ gìn chủ quyền biển, đảo và phát triển bền vững KTB, đảo Việt Nam.

PGS, TS. Dương Xuân Sơn
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 1+2 năm 2025

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Bộ NN&MT: Đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tăng trưởng ngành ở mức cao nhất

Lựa chọn đầu tư mở rộng hoàn chỉnh đoạn tuyến cao tốc phải khoa học, sát thực tiễn, khả thi, hiệu quả

Nuôi, trồng dược liệu dưới tán rừng phải gắn chặt với 'giữ dân, giữ rừng'

Việt Nam - Cuba: Hợp tác nông nghiệp, thủy sản là mũi nhọn

Nông nghiệp

Quảng Bình: Nâng cao giá trị sản phẩm OCOP 3 - 4 sao, hướng đến phát triển bền vững

Hà Tĩnh: Nâng cao nhận thức và kỹ năng về chú trọng công tác vệ sinh môi trường trong chăn nuôi

Ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng thủy sản với mô hình xen ghép tôm sú và cá rô phi đơn tính tại Hà Tĩnh

Hành trình kết nối và lan tỏa giá trị OCOP tại miền Trung thân thương của Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Tài nguyên

Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2025 có chủ đề: “Công nghệ xanh để đại dương bền vững”

Chuyển đổi mục đích sử dụng 6,94 ha rừng để thực hiện Dự án xây dựng đường bộ cao tốc Khánh Hòa -Buôn Ma Thuột

Phân cấp, gắn trách nhiệm quản lý tài nguyên khoáng sản

Xây dựng chính sách phân quyền đất đai cho mô hình chính quyền hai cấp

Môi trường

Ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý rủi ro lũ lụt: Giải pháp cấp thiết cho Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu

Tăng cường hợp tác Việt Nam - Nhật Bản trong quản lý thiên tai: Hướng tới mô hình mẫu phòng, chống sạt lở đất và lũ quét

Bảo đảm môi trường sống trong lành

Bảo tồn nguồn gen vật nuôi, thủy sản là nhiệm vụ chiến lược

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Nghiên cứu khoa học, công nghệ trong chăn nuôi, thú y, thuỷ sản, kiểm ngư: Thể chế, nhân lực, hạ tầng, dữ liệu và công nghệ là trọng tâm, cốt lõi

Hội thảo Chuyên đề 3: Nhận diện thực trạng nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Môi trường, Tài nguyên nước, Viễn thám

Khoa học công nghệ - Đòn bẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp và môi trường

Dự báo hạn hán, thiếu nước dựa trên công nghệ viễn thám

Chính sách

Tăng tốc hoàn thành mục tiêu hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2025

Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã kiểm tra hiện trường tình hình thực hiện các dự án thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Xây dựng, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trong giai đoạn mới

Nghiên cứu, rà soát kỹ phương án đầu tư đường kết nối Bình Phước - Đồng Nai qua cầu Mã Đà

Phát triển

Kỷ niệm 40 năm thành lập Tạp chí Người Hà Nội và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhì

Ngành Nông nghiệp và Môi trường: Tốc độ tăng trưởng trong quý I cao nhất trong những năm gần đây

Phát động Cuộc thi viết “Vượt lên số phận” lần thứ VIII

Long An: Top 2 địa phương cải cách mạnh nhất theo PCI 2005 - 2024

Diễn đàn

Thời tiết ngày 13/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ nắng ráo, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao

Thời tiết ngày 12/5: Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ mát dịu, Tây Nguyên và Nam Bộ chiều tối mưa to

Thời tiết ngày 11/5: Mưa to trải dài khắp đất nước, nhiều nơi mưa trên 60mm