
Kiểm toán môi trường - Bài 3: Kinh nghiệm và cách quản lý, kiểm soát ô nhiễm ở Nhật Bản
08/04/2024TN&MTTừ những năm 1960, đất nước Nhật Bản đã phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Bên cạnh việc xây dựng hệ thống pháp luật kiểm soát ô nhiễm, Chính phủ Nhật Bản đã cùng với khối tư nhân hợp tác, liên kết để thực hiện trách nhiệm khắc phục ô nhiễm môi trường. Trong các hoạt động đó, đội ngũ cán bộ quản lý môi trường đã đóng góp hiệu quả lớn trong kiểm soát ô nhiễm tại Nhật Bản.
Nhận diện thách thức và giải quyết bằng chế tài pháp lý
Theo tài liệu của Bộ Môi trường Nhật Bản, tại Nhật Bản (giai đoạn từ 1950 - 1960), với sự phát triển quá nhanh của các ngành nghề sản xuất công nghiệp đã làm gia tăng những gánh nặng đối với môi trường, dẫn đến môi trường sống bị suy thoái, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và sự phát triển của đất nước. Nguyên nhân chủ yếu là do Chính phủ Nhật Bản coi trọng sự phát triển kinh tế hơn là đảm bảo sức khỏe người dân và môi trường sống trong lành.
Khí lưu huỳnh từ nhà máy thải trực tiếp vào không khí là thủ phạm gây các chứng bệnh nghiêm trọng về hô hấp
Tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là môi trường không khí và nước ngày càng gia tăng, nên người Nhật đã mắc nhiều căn bệnh như: Bệnh hen suyễn do bị ô nhiễm không khí từ khói của các khu công nghiệp (KCN) dầu khí; Bệnh Minamata (chân tay bị liệt hoặc run lẩy bẩy, tai điếc, mắt mờ) do nhiễm độc thủy ngân từ nhà máy hóa chất,… Trước thực trang đó, Chính phủ Nhật Bản đã phải tiến hành các giải pháp để cải thiện hệ thống pháp luật và thiết lập cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, nhằm giải quyết cùng lúc 3 vấn đề: Giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ môi trường; giảm được chi phí kiểm soát ô nhiễm và chi phí về sức khỏe của cộng đồng; giảm giá thành sản xuất và giảm chi phí năng lượng. Với cách tư duy mới về quản lý sản xuất như vậy, Nhật Bản đã không phải chỉ lo xử lý chất thải ở công đoạn cuối của sản phẩm, mà phải tính toán ngay từ đầu làm sao để sản xuất hợp lý nhất, phát thải ra môi trường ít nhất.
Theo đó, Nhật Bản đã thiết lập khung pháp lý và cơ quan quản lý môi trường: Ban hành những quy định pháp luật nghiêm ngặt về tiêu chuẩn phát thải chất thải, kiểm soát ô nhiễm nước, không khí và giám sát ô nhiễm chất độc hại; coi trọng chính sách giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường, khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức nỗ lực ngăn chặn, kiểm soát ô nhiễm (KSON) môi trường.
Năm 1967, Nhật Bản ban hành Luật cơ bản về KSON môi trường, trong đó đưa ra các quy định về kế hoạch KSON, các tiêu chuẩn môi trường và hệ thống kiểm soát tổng tải lượng ô nhiễm.
Đến năm 1971, Bộ Môi trường Nhật Bản được thành lập nhằm thúc đẩy công tác quản lý KSON và bảo tồn thiên nhiên của đất nước.
Năm 1972, Luật Bảo tồn thiên nhiên đã chính thức được ban hành nhằm ngăn chặn sự phá hủy môi trường tự nhiên.
Những bộ luật trên đã đạt được những thành công nhất định trong việc giải quyết những vấn đề môi trường của Nhật Bản tại thời điểm đó và là cơ sở cho Luật Môi trường cơ bản được ban hành vào năm 1993, trong đó đã đưa ra Hệ thống kiểm soát ô nhiễm (KSON).
Công nhân phân loại rác thải nhựa để tái chế tại Trung tâm Tái chế Tài nguyên Tokyo. Ảnh: Reuters
Hệ thống KSON bao gồm các chính sách và quy định về KSON không khí, KSON nước, các vấn đề ô nhiễm đất, các tiêu chuẩn quốc gia về chất độc hại; hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn về chất lượng môi trường; những biện pháp kiểm tra và kiểm soát nghiêm ngặt môi trường sản xuất công nghiệp; các quy định về trách nhiệm của cơ sở gây ô nhiễm…
Trong Hệ thống KSON, quy định về KSON không khí (Luật KSON không khí) tập trung vào 3 nội dung chính: Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí; Các tiêu chuẩn và quy định phát thải (Tiêu chuẩn quốc gia đồng nhất về phát thải; các tiêu chuẩn khác về phát thải chặt chẽ hơn của địa phương); Tổng tải lượng ô nhiễm ở các thành phố.
Luật KSON không khí đã đưa ra các tiêu chuẩn phát thải, tiêu chuẩn kiểm soát tổng lượng phát thải, tiêu chuẩn về xây dựng, về đường biên và tiêu chuẩn đối với các nồng độ trong môi trường không khí (SO2; NO2; bụi thông thường, bụi đặc thù…). Đồng thời, Luật còn đề cập đến những biện pháp ứng phó với các chất ô nhiễm không khí nguy hại, kiểm soát các nguồn lưu động (trong giao thông), quy định về các phương tiện vận tải chạy trên đường.
Vì thế, việc ra đời Luật KSON nước là rất quan trọng, giúp hoạt động quản lý môi trường nước đi vào nề nếp. Luật KSON nước chính thức được thông qua vào năm 1970. Luật bao gồm các tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng nước, quy định cho các nhà máy và hệ thống kiểm soát tổng lượng chất ô nhiễm tại các ao hồ, sông suối, biển.
Luật KSON nước của Nhật Bản tập trung vào 3 vấn đề: Tiêu chuẩn chất lượng môi trường nước; tiêu chuẩn và quy định phát thải; kiểm soát tổng lượng chất ô nhiễm. Trong đó, Tiêu chuẩn chất lượng môi trường nước (với 37 chỉ tiêu), bao gồm: Tiêu chuẩn chất lượng môi trường nước liên quan đến bảo vệ sức khỏe con người (với 27 chỉ tiêu: các kim loại nặng, chất hữu cơ khó phân hủy và chất hóa học nguy hại như thủy ngân, cyanua); tiêu chuẩn chất lượng môi trường nước liên quan đến BVMT sống (với 10 chỉ tiêu: COD, BOD, ôxy hòa tan, tổng nitơ, tổng phất pho…).
Mục đích của kiểm soát tổng tải lượng ô nhiễm là bảo vệ chất lượng nước tương ứng với tình hình sử dụng nước của vùng nước. Các biện pháp cải thiện chất lượng nước có thể được phân thành 2 loại: (1). Những biện pháp giảm lượng phát thải tải lượng ô nhiễm tại vùng nước (biện pháp nguồn phát thải); (2). Những biện pháp lọc ngay tại khu vực ô nhiễm nước đang tiến triển và lọc tải ô nhiễm đã được thải ra trong vùng nước đối tượng (biện pháp lọc trực tiếp). Nước thải công nghiệp từ các nhà máy, cơ sở kinh doanh hay các trại chăn nuôi quy mô lớn được quy định bởi quy chế kiểm soát nước thải nhằm giảm tải lượng phát thải.
Một trong những biện pháp kiểm soát nước thải thông dụng nhất chính là đặt ra quy chế nồng độ phát thải mà trong đó có quy định về nồng độ của tải ô nhiễm chứa trong nước thải. Ví dụ, chỉ cần đo nồng độ nước thải của một cơ sở kinh doanh là có thể xác định ngay cơ sở đó có tuân thủ quy chế hay không. Các nguồn phát sinh ô nhiễm được phân loại tùy theo việc có xác định được địa điểm phát sinh hay không.
Việc thực hiện biện pháp nguồn phát thải bao gồm xử lý nước thải để giảm tải ô nhiễm và giảm lượng sử dụng nguyên liệu, vật liệu chứa tải ô nhiễm… Những biện pháp làm sạch trực tiếp có thể thực hiện gồm có nạo vét (trực tiếp loại bỏ tải ô nhiễm tích tụ ở đáy vùng nước), sử dụng đất lầy và bãi triều, sục khí (sục oxy hoặc không khí vào trong vùng nước) và bơm nước vào để lọc (nước được bơm vào từ một hệ thống nước khác chưa bị ô nhiễm).
Về vấn đề ô nhiễm môi trường đất, Nhật Bản đã ban hành Luật ngăn ngừa ô nhiễm đất tại vùng đất nông nghiệp. Luật đã đưa ra các biện pháp đặc biệt nhằm quản lý tài chính quốc gia cho việc ngăn ngừa ô nhiễm và quy định về trách nhiệm của các công ty vận hành, chi phí vận hành; Các biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm, cũng như các biện pháp xử lý ô nhiễm; Xây dựng hệ thống xử lý đất ô nhiễm dựa vào Luật về các biện pháp đặc biệt đối với dioxin, trong đó bao gồm: Xác định biện pháp KSON dioxin; Kế hoạch tẩy độc đất nhiễm dioxin.
Người Nhật xả rác rất đúng nơi quy định
Bên cạnh một hệ thống chính sách KSON nghiêm ngặt, Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương, cũng như nhân dân Nhật Bản rất nỗ lực trong việc làm sạch môi trường.
Ở Nhật Bản, có hàng nghìn tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực môi trường, hàng trăm tờ báo chuyên về môi trường, về xử lý chất thải và bảo tồn đa dạng sinh học. Khắp nơi đâu đâu cũng có các thông điệp về BVMT, tràn ngập trên các dãy phố, trên mọi phương tiện thông tin đại chúng, tác động vào nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân Nhật Bản về tình yêu đối với môi trường và cuộc sống, hành động vì đất nước xanh, sạch, đẹp để gìn giữ cho thế hệ mai sau.
Kiểm soát ô nhiễm chặt chẽ trong tất cả các nhà máy
Do tính cấp bách và tầm quan trọng của các biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm, Nhật Bản đã đưa ra 14 luật liên quan đến ô nhiễm đã được ban hành, sửa đổi vào năm 1970.
Thời điểm đó, dù các quy định đã được siết chặt nhưng các doanh nghiệp vẫn tụt hậu trong các cam kết ngăn ngừa ô nhiễm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do thiếu hệ thống ngăn ngừa ô nhiễm.
Nhật Bản ứng dụng quy trình xử lý nước thải an toàn, khép kín
Vì vậy, chính phủ Nhật Bản đã cân nhắc việc xây dựng một tổ chức kiểm soát ô nhiễm hiệu quả trong nhà máy. Đạo luật về Cải thiện Hệ thống Ngăn ngừa ô nhiễm tại các Nhà máy đặc thù (1971) yêu cầu các nhà máy đặc thù thiết lập hệ thống ngăn ngừa ô nhiễm để ngăn ngừa ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường do ô nhiễm không khí, bụi, nước thải, điôxin, tiếng ồn và rung động do các hoạt động công nghiệp gây ra.
Ngành công nghiệp sản xuất, chế tạo là ngành sản xuất được định nghĩa trong phân loại công nghiệp tiêu chuẩn Nhật Bản. Bao gồm tất cả các ngành xử lý nguyên liệu thô để sản xuất sản phẩm. Ví dụ, ngành công nghiệp sắt thép, công nghiệp hóa chất, công nghiệp sản xuất sản phẩm kim loại, công nghiệp sản xuất máy móc và thiết bị điện, công nghiệp sản xuất máy móc và thiết bị vận tải, công nghiệp dệt may, công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy, công nghiệp sản xuất sản phẩm gỗ và công nghiệp sản xuất đồ uống.
Mỗi nhà máy đặc thù phải bổ nhiệm một người quản lý kiểm soát ô nhiễm và những người khác và tổ chức một hệ thống kiểm soát ô nhiễm.
Người giám sát chịu trách nhiệm quản lý tổng thể việc ngăn ngừa ô nhiễm tại nhà máy đặc thù. (Điều 3.1). Giám sát các cơ sở gây ô nhiễm, bảo trì và sử dụng các cơ sở xử lý ô nhiễm, đo lường và ghi lại nồng độ và lượng chất ô nhiễm được thải ra.
Thực hiện các biện pháp khi xảy ra sự cố. Người giám sát là người giám sát hoạt động kinh doanh của nhà máy được chỉ định có liên quan (= người quản lý nhà máy) (Điều 3.2). Trưởng phòng quản lý kiểm soát ô nhiễm có trách nhiệm hỗ trợ cho người giám sát kiểm soát ô nhiễm và chỉ đạo người quản lý kiểm soát ô nhiễm. (Điều 5)
Người quản lý kiểm soát ô nhiễm phải kiểm tra nguyên vật liệu sử dụng; kiểm tra các thiết bị xả chất ô nhiễm; Vận hành, kiểm tra và sửa chữa các thiết bị xử lý chất ô nhiễm; Đo mức độ ô nhiễm chất gây ô nhiễm và ghi lại kết quả; Kiểm tra và sửa chữa thiết bị đo; Thực hiện các biện pháp cần thiết trong trường hợp xảy ra tai nạn và các vấn đề khác.
Người vận hành và các nhân viên khác phải tuân theo hướng dẫn của người giám sát kiểm soát ô nhiễm, người quản lý kiểm soát ô nhiễm và trưởng phòng kiểm soát ô nhiễm khi những cán bộ này đánh giá là cần thiết trong việc thực hiện nhiệm vụ của người vận hành và các nhân viên khác.
Người Nhật yêu cầu quản lý kiểm soát ô nhiễm phải là người có trình độ chuyên môn, đã vượt qua kỳ thi quốc gia hoặc đã hoàn thành các khóa đào tạo được cấp phép cho từng hạng mục: Nhà máy có các thiết bị phát thải khói và muội; cống và các thiết bị xả nước thải; nhà máy có các thiết bị phát thải tiếng ồn lớn; nhà máy có thiết bị phát thải bụi đặc thù; nhà máy có thiết bị phát thải bụi thông thường; nhà máy có các thiết bị phát thải đioxin ra không khí hoặc xả nước thải hoặc nước thải công nghiệp bị nhiễm đioxin; nhà máy có các thiết bị xả lượng lớn nước thải và muội.
Người quản lý kiểm soát ô nhiễm phải có trình độ chuyên môn bằng cách vượt qua kỳ thi quốc gia hoặc khóa đào tạo dành cho người quản lý kiểm soát ô nhiễm. Chính phủ đã chỉ định một Viện có đủ năng lực tổ chức các kỳ thi quốc gia và đăng ký một số viện tổ chức các khóa đào tạo.
Người Nhật giáo dục về trách nhiệm bảo vệ môi trường trong trường học rất nghiêm, khoa học
Nhật Bản là một trong những đất nước được đánh giá là sạch nhất thế giới dù cho ở đây vẫn có một số vấn đề môi trường riêng. Nhìn tổng thể, đây là một quốc gia khá sạch sẽ với các đường phố đẹp, gọn gàng, sạch. Ở Nhật Bản, sự sạch sẽ là truyền thống đã thấm nhuần từ nền văn hóa, giáo dục của họ. Những bức vẽ trên tường ở những khu vực công cộng cũng rất hiếm hoi.
Nhật Bản có một hệ thống giao thông công cộng tuyệt vời. Chúng không chỉ an toàn, thoải mái, giá cả phải chăng và đáng tin cậy mà còn rất sạch sẽ. Nó được coi là những phương tiện giao thông tốt nhất trên thế giới. Khi nói đến xe lửa, ghế được đệm rất êm để đảm bảo một chuyến đi thoải mái và điều đó cũng sẽ giúp mọi người cảm thấy có trách nhiệm với việc giữ gìn mọi thứ sạch sẽ, gọn gàng. Ngoài ra, việc kiểm soát khí thải của quốc gia này được siết chặt bằng các biện pháp nghiêm ngặt nhất trên thế giới. Là nước đi đầu trong công nghệ kiểm soát ô nhiễm, nhiều hãng Nhật Bản đã thông qua các quy định về sử dụng nhiên liệu thân thiện với môi trường đầu tiên trên thế giới cho các loại xe hạng nặng.
Bài 4: Bài học từ Nhật Bản và gợi mở cho Việt Nam
Bảo Trâm (lược ghi và tổng hợp)