
Bài 1: Thắp lửa vươn lên - Xóa dấu chân đói nghèo
12/07/2025TN&MTGiữa núi rừng heo hút hay miền biển gió cát, những câu chuyện thoát nghèo bền vững đang được viết nên bằng chính đôi tay và ý chí tự lực của những con người từng quanh năm “đói ăn, khát chữ”. Và phía sau hành trình ấy, có dấu chân bền bỉ của những cán bộ bám bản, bám rẫy, bám biển, cùng chính sách đồng hành của Bộ Nông nghiệp và Môi trường để gieo niềm tin: không ai phải nghèo mãi, nếu dám thay đổi và được tiếp sức đúng lúc.
Quế Trà My được đồng bào Ca Dong, Xê Đăng rất quý trọng, xem đó như một loại “cây thiêng”. Cây quế Trà My không phải của riêng ai mà là trách nhiệm chung của hệ thống chính trị, vì quế góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
Đường về “rốn nghèo” đổi thay
Những ngày đầu tháng Bảy, chúng tôi men theo con đường bê tông mới mở xuyên rừng quế xã Trà Leng, Nam Trà My, Đà Nẵng. Cơn mưa rừng bất chợt làm con đường thêm trơn trượt, nhưng không thể xoá đi gam màu xanh non mơn mởn của quế, sâm Ngọc Linh vươn mình bên những triền đồi vốn từng hoang hóa.
Chỉ vài năm trước, Trà Leng còn là một trong những điểm nghèo nhất của Nam Trà My - cũng là một trong những xã nằm sâu, xa bậc nhất Quảng Nam (trước đây). Đường chưa có, sóng điện thoại chập chờn, trẻ em nhiều bản chưa quen con chữ, nếp sống du canh du cư bám riết lấy cộng đồng người Mơ Nông, Xơ Đăng bao đời.
Lũ quét, sạt lở từng cướp đi của họ không chỉ là đất canh tác mà cả mái nhà, cả những giấc mơ đổi đời chớm nở. Mỗi mùa mưa về, bản làng lại như bị cô lập, hàng cứu trợ từng đợt chở vào, rồi cũng lặng lẽ rời đi, còn cái nghèo thì cứ bám riết không buông.
Vậy mà chỉ trong vài năm, dọc theo những triền núi hiểm trở, những con đường lâm sinh mở ra đã nối Trà Leng với trung tâm huyện, nối những thôn bản tách biệt với nhau. Những “con đường nhỏ” đã mang những “giấc mơ lớn” len vào bản. Lúa nương lác đác dần thay bằng nương quế, dưới tán quế là sâm, cây dược liệu quý được chăm bón bài bản. Đất rừng hoang hoá, bạc màu giờ trở thành “vàng xanh” cho cả bản làng.
Những mái nhà sàn mới dựng, tiếng cười trẻ thơ ríu rít quanh sân trường bán trú, tiếng máy xát lúa, máy ươm giống, máy bơm tưới luồn qua khe núi… Tất cả hòa vào nhau, báo hiệu một nhịp sống mới đang dần hình thành. Không còn dáng vẻ lầm lũi co cụm quanh bếp lửa tránh rét, những nhóm hộ liên kết đã biết bàn chuyện mùa vụ, tính chuyện bán sâm ra sao, gom vốn trồng quế thế nào cho kịp thời vụ.
“Ngày xưa chưa có đường, chưa có cán bộ khuyến nông về, bà con chỉ biết phát nương làm ngô, ăn không đủ no. Giờ có đường, có cán bộ chỉ cách trồng sâm, nuôi ong, trồng quế. Dân mình làm theo, cũng biết bán được tiền. Lũ trẻ giờ được học gần, đi học không sợ mưa lũ. Khó khăn thì còn, nhưng không ai muốn nghèo mãi đâu!”, già làng Hồ Văn Đệ vuốt chòm râu bạc, giọng rắn rỏi.
Con đường mới mở xuyên rừng quế, nối dài những ước mơ mới, cũng là minh chứng cho một thực tế: Khi giao thông thông suốt, khi “cán bộ bám dân, dân bám đất”, thì ngay giữa rốn nghèo cũng có thể hồi sinh những mầm hy vọng bền vững.
Vùng xanh của hy vọng
Những bàn tay gieo mầm hy vọng
Ít ai biết rằng, để có được “vùng xanh hy vọng” giữa đại ngàn hôm nay, có những bước chân của cán bộ khuyến nông, cán bộ lâm nghiệp, cán bộ môi trường đã bao mùa dầm mình trong mưa nguồn gió núi. Họ không chỉ mang giống mới, kỹ thuật mới về tận nương rẫy, mà còn mang theo những niềm tin mới - điều mà nhiều nơi từng thiếu nhất để thoát nghèo.
Trong suốt những năm qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã xác định rõ: Muốn giảm nghèo bền vững, phải bắt đầu từ sinh kế gắn với bảo vệ tài nguyên, gắn với khai thác tiềm năng đất đai, rừng, biển một cách bền vững. Những chương trình phát triển rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng được Bộ chỉ đạo triển khai đồng bộ, mở ra sinh kế cho hàng triệu hộ dân ở vùng cao, vùng biên giới, vùng ven biển dễ tổn thương.
Chỉ riêng Chương trình trồng rừng gỗ lớn, trồng cây bản địa dưới tán rừng tự nhiên đã giúp nhiều hộ dân có thu nhập ổn định từ rừng thay vì phá rừng làm nương rẫy như trước. Chương trình phát triển nông nghiệp hữu cơ, phát triển cây đặc sản - OCOP do Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì đã chắp cánh cho những sản phẩm địa phương như sâm Ngọc Linh, quế Trà My, chè Shan tuyết Hà Giang, mắc ca Tây Nguyên… vươn ra thị trường lớn.
Không chỉ dừng lại ở cây rừng, cây đặc sản, những cánh đồng mẫu lớn, mô hình nuôi thủy sản công nghệ cao, chuỗi giá trị nông sản sạch được Bộ đồng hành xây dựng đã trở thành điểm tựa sinh kế cho hàng vạn hộ nghèo vùng ven biển, bãi ngang. Ở tỉnh Quảng Trị, những ngư dân từng bấp bênh với chiếc thuyền nhỏ ven bờ giờ đã biết lập tổ, đóng tàu lớn vươn khơi, giữ biển, làm giàu từ biển.
Và xuyên suốt các dự án ấy là lực lượng cán bộ của Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo, khuyến nông, kỹ sư môi trường, cán bộ dự án bám cơ sở - những người lặng lẽ “cõng” chính sách từ nghị quyết, văn bản ra đồng ruộng, nương rẫy, bãi biển, bãi ngang. Họ không chỉ “trao cần câu” mà còn kiên trì “dạy cách câu”, sẵn sàng ăn cùng dân, làm cùng dân, cùng dân vượt qua những mùa giáp hạt, mùa bão lũ.
Nhờ vậy, nhiều nơi từng là “vùng lõi nghèo” đã thay đổi. Bản làng xa xôi giờ đã có đường vào, điện sáng, trường học, trạm y tế khang trang. Những mô hình sinh kế xanh gắn với bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên bản địa đã lan rộng, trở thành minh chứng sống động cho tư duy: Không đánh đổi rừng, không tận diệt biển, nhưng vẫn làm giàu trên chính quê hương mình.
Chặng đường giảm nghèo vẫn còn dài, thách thức còn lớn, nhưng những bàn tay cần mẫn gieo mầm hy vọng ấy, dưới sự định hướng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang từng ngày biến điều không thể thành có thể. Để rồi, mỗi luống sâm, đồi quế, vuông tôm, bè cá lồng… đều trở thành “cánh cửa” mở ra tương lai tươi sáng hơn, khẳng định một niềm tin giản dị: Nghèo đói có thể bị đẩy lùi, nếu người dân được tiếp sức, tiếp lửa và đồng hành bền bỉ.
Sinh kế mới trên những vùng đất cằn
Ở vùng cao Lào Cai, Tuyên Quang, Lai Châu - nơi mà đất dốc đá tai mèo từng chỉ trồng ngô, sắn,.. giờ đây những vạt đồi hoang hóa đã được thay thế bằng những vườn lê Tai Nung, mận tam hoa, đào Sapa trĩu quả. Nhờ có chương trình hỗ trợ chuyển đổi cây trồng phù hợp khí hậu lạnh, cộng với chính sách tín dụng xanh do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp cùng chính quyền địa phương triển khai, hàng ngàn hộ dân đã mạnh dạn phá thế canh tác nhỏ lẻ, manh mún.
ảnh minh hoạ
Những hợp tác xã trồng cây ăn quả theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ đã ra đời, người nông dân không còn lúng túng chuyện “trồng gì, bán cho ai” như trước. Sản phẩm nông sản bản địa giờ có chứng nhận OCOP, có tem truy xuất nguồn gốc, lên sàn thương mại điện tử, đi chợ phiên du lịch. Trái lê Bắc Hà, đào Sapa, mận tam hoa Bắc Kạn giờ không chỉ bán cho thương lái mà còn “có mặt” trong siêu thị tại TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, thậm chí xuất sang Trung Quốc, Nhật Bản theo chuỗi.
Dưới đồng bằng ven biển miền Trung, những làng chài nghèo của Quảng Trị cũng đang khoác áo mới. Trước đây, ngư dân ven biển chỉ biết bám thuyền nhỏ đánh bắt gần bờ, mùa biển động thì trắng tay. Nay, nhờ Chương trình phát triển thủy sản bền vững, các tổ đội đoàn kết đã hình thành, tàu lớn được đóng mới, vươn khơi xa hàng trăm hải lý. Kèm theo đó là mô hình nuôi cá lồng, tôm công nghệ cao gắn với bảo vệ môi trường đầm phá. Chỉ sau vài vụ nuôi, nhiều gia đình từ hộ nghèo đã thoát nghèo, có điều kiện sửa nhà, cho con học hành tử tế.
ảnh minh hoạ
Ở miền Trung nắng gió, những vuông tôm, bè cá không chỉ là sinh kế mà còn là điểm tựa để người dân gắn bó với biển, giữ gìn biển cho con cháu. “Nếu cứ khai thác tận diệt thì biển cũng kiệt. Được cán bộ thủy sản hướng dẫn, giờ dân mình biết nuôi trồng ra sao để phát triển bền vững, để còn giữ nước, giữ đầm”, ông Trần Văn Thông - một lão ngư ở Gio Linh (Quảng Trị) chia sẻ khi chỉ tay về những lồng cá bớp sắp đến kỳ thu hoạch.
Miền Trung có biển, miền núi có rừng, Tây Nguyên có đất bazan… Mỗi nơi đều có điều kiện tự nhiên riêng, nhưng điều quan trọng là phát huy được thế mạnh bản địa để làm giàu. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chủ động phối hợp các bộ ngành, chính quyền các tỉnh lập quy hoạch, hỗ trợ tín dụng ưu đãi, chuyển giao giống, công nghệ, kỹ thuật canh tác bền vững. Tất cả nhằm mục tiêu biến những vùng đất cằn, vùng “trũng” của nghèo đói thành những vùng sinh kế mới, không chỉ đảm bảo miếng ăn hôm nay mà còn gắn với phát triển xanh, phát triển lâu dài.
Những cánh đồng mẫu lớn, những HTX kiểu mới, những khu du lịch cộng đồng gắn nông nghiệp đang từng bước đưa người dân vùng khó thoát cảnh “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” kiểu cũ. Thay vào đó là tư duy làm kinh tế nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp xanh, nông nghiệp tuần hoàn - những hướng đi mà Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang kiên trì đồng hành, hỗ trợ sát sao.
Sinh kế mới đã mở lối. Đất vẫn cằn, khí hậu vẫn khắc nghiệt, nhưng khi người dân đã được tiếp sức, tiếp vốn, tiếp kỹ thuật - họ đã biết tin vào con đường tự lực. Và khi “hạt mầm hy vọng” bén rễ, những vùng đất khắc nghiệt nhất cũng có thể đâm chồi cho một tương lai ấm no.
Không ai nghèo mãi nếu dám đổi thay
Đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo - nơi tưởng chừng bị bỏ lại phía sau, giờ đã dần trở thành những “vùng sáng” mới trên bản đồ phát triển bền vững. Từ những ngôi làng treo leo lưng núi, những bản nhỏ ven sông, ven biển, những câu chuyện đổi thay đã và đang được viết nên bằng chính đôi tay, khối óc và ý chí tự lực của người dân.
Ở Bắc Hà (Lào Cai), chị Hoàng Thị Mến - một phụ nữ Tày từng quanh năm gắn với rẫy ngô, ruộng sắn, giờ đã trở thành chủ một homestay nhỏ xinh. Mỗi mùa hoa mận, đào nở, homestay của chị kín phòng, đón khách phương xa về thưởng hoa, trải nghiệm văn hóa người Tày. “Hồi chưa có cán bộ về hướng dẫn, chưa có chương trình làm du lịch cộng đồng, dân mình còn sợ. Giờ được hỗ trợ vốn, được tập huấn cách đón khách, quảng bá, ai cũng mạnh dạn làm. Khó đấy, nhưng đã biết tính chuyện xa, không ai muốn nghèo mãi cả!”, chị Mến chia sẻ!.
Câu chuyện của chị Mến không phải cá biệt. Ở Nam Trà My, những thanh niên Xơ Đăng, Mơ Nông từng bỏ bản xuống núi làm thuê, giờ quay về làm giàu từ sâm Ngọc Linh, quế Trà My. Ở Quảng Ngãi, Quảng Nam (cũ), nhiều làng chài ven biển thành lập tổ đội đoàn kết vươn khơi, giữ biển, bảo vệ nguồn lợi, tạo sinh kế ổn định thay vì khai thác tận diệt như trước. Ở miền Tây, những xóm nghèo ven sông Hậu nay đã thành vùng nuôi cá tra xuất khẩu, công nhân hợp tác xã không chỉ có việc quanh năm mà còn được tập huấn, nâng cao tay nghề, tự tin ký hợp đồng với doanh nghiệp lớn.
Sau mỗi câu chuyện thành công ấy là sự bền bỉ của cán bộ giảm nghèo, cơ sở, kỹ sư khuyến nông, cán bộ môi trường - những “cầu nối” không thể thiếu để người dân biết “làm đúng, làm trúng, làm bền”. Họ lặn lội đến từng bản, bám từng rẫy, theo từng hộ để tập huấn, hướng dẫn, đưa tiến bộ kỹ thuật vào đời sống. Trên tất cả, họ là người khơi dậy khát vọng thoát nghèo - điều quý giá nhất mà tiền hỗ trợ nào cũng không thể thay thế.
Trong bức tranh ấy, vai trò của Bộ Nông nghiệp và Môi trường không chỉ dừng lại ở việc kiến thiết các chương trình, dự án, mà còn là “nhạc trưởng” kết nối các nguồn lực từ vốn tín dụng ưu đãi, kỹ thuật, hạ tầng, cho đến thị trường đầu ra. Từ miền núi, miền biển đến vùng bãi ngang, đảo xa, chính sách của Bộ đã chạm đến hàng triệu hộ nghèo, nhóm yếu thế, trao cho họ không chỉ “cần câu” mà cả niềm tin để vươn mình đổi đời.
Hành trình giảm nghèo bền vững vẫn còn dài, còn nhiều thách thức trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh. Nhưng niềm tin vào con đường “nghèo rồi cũng sẽ qua nếu dám đổi thay” ngày càng được nhân lên. Bởi sau mỗi cánh rừng hồi sinh, mỗi vuông tôm, mỗi homestay mọc lên nơi bản làng xa xôi, là những câu chuyện thật - chứng minh: không ai nghèo mãi, nếu tự tin đứng dậy, tự lực vươn lên và được đồng hành đúng lúc, đúng cách.
Diệp Anh