
Những gương sáng trong hành trình giảm nghèo bền vững
14/07/2025TN&MTTừ những con đường đất đỏ men theo sườn núi Tây Bắc đến những cánh rẫy cà phê bạt ngàn miền Tây Nguyên, hành trình thoát nghèo hôm nay không còn là câu chuyện đơn lẻ của một vài hộ mà đang lan ra thành những làn sóng tự lực, tự cường với sự đồng hành bền bỉ của những chính sách thiết thực từ Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững (Bộ Nông nghiệp và Môi trường).
Những bàn tay không cam chịu
Sớm tinh mơ, khi sương vẫn còn giăng đặc trên các triền núi, đã nghe tiếng cuốc xới, tiếng gà gáy gọi bình minh trên những mảnh nương vừa hồi sinh sau mùa đất xấu. Không đợi ai mang cái ăn đến tận tay, những người như anh Giàng A Lử đã tự xốc lại sức mình, tìm ra con đường mới để bám đất, bám làng.
“Trước đây quanh năm chỉ có ngô, thiếu đất bằng, mùa hạn thì mất trắng, mùa mưa đất trôi. Cán bộ về vận động, mình mạnh dạn đi học trồng rau, đào ruộng bậc thang giữ nước, rồi gom chị em trong bản góp đất, góp công cùng làm” - anh Giàng A Lử kể, mắt ánh lên niềm tin.
Giờ đây, vườn rau của anh không chỉ phục vụ chợ phiên xã mà còn bán về thị trấn Sa Pa, cung cấp cho các homestay du lịch. Mỗi mùa vụ, gia đình anh có thêm khoản thu nhập đều, nuôi con ăn học, sửa sang được căn nhà gỗ lợp tôn chắc chắn.
Ở bản bên, chị Mùa Thị Say - một phụ nữ Dao đỏ cũng là tấm gương sáng. Từng là hộ nghèo nhất bản, không ruộng, chỉ trông vào mấy sào nương trồng ngô đá. Nhưng chị quyết không buông tay. Khi xã mở lớp dạy nghề may thổ cẩm, chị đăng ký ngay, rồi tự tìm đầu ra qua khách du lịch, qua mạng xã hội. Nay, cơ sở may nhỏ của chị đã tạo việc làm thêm cho hơn 10 chị em trong bản, giúp họ không phải đi làm thuê xa, con cái không còn thất học.
Ở miền Trung đầy nắng gió, bác Hồ Văn Phú (Quảng Trị) một nông dân Pa Cô cũng tự tay “dời núi” nghèo. Khi rẫy sắn, rẫy bắp mãi không đủ ăn, ông mạnh dạn chuyển sang nuôi dê sinh sản, nuôi gà thả đồi, tận dụng đất vườn để trồng keo, trồng cây ăn quả. “Ngày đầu lo lắm, vốn liếng đâu có nhiều. Nhưng nhờ cán bộ khuyến nông chỉ cách làm chuồng, tiêm phòng, rồi được vay vốn ưu đãi, nên giờ đàn dê nhà tôi đã lên hơn 40 con, mỗi năm bán cũng được 50-60 triệu đồng” - bác Phú nói, bàn tay sần sùi xoa nhẹ lưng con dê đầu đàn như vuốt niềm hy vọng.
Những bàn tay ấy, những con người ấy không chờ ai. Họ chọn tự đứng dậy, chọn con đường khó nhưng có ánh sáng. Và khi có thêm sự đồng hành của chính sách, của cán bộ ngành Nông nghiệp và Môi trường, hành trình vươn lên ấy càng bền vững và lan tỏa mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Từ buôn làng xa xôi đến sàn thương mại điện tử
Ở buôn Đắk R’măng, Đắk Nông (cũ), chị H’Lan - một phụ nữ dân tộc M’nông từng nghĩ đời mình chỉ quanh quẩn bên rẫy điều, vườn tiêu, lúc được mùa thì được bữa no, mất mùa lại trắng tay. Những đêm nhìn con học bài dưới ánh đèn dầu, chị tự hỏi bao giờ mình mới thoát được cái nghèo đeo bám từ đời cha ông.
Cơ hội mở ra khi chị tham gia lớp tập huấn về trồng, chăm sóc cà phê bền vững do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức. Ở lớp học nhỏ dựng tạm ngay sân nhà văn hóa buôn, những cán bộ khuyến nông đã chỉ cho chị và bà con cách cải tạo vườn tạp, cách ghép giống mới cho năng suất cao, ít sâu bệnh. Quan trọng hơn, họ hướng dẫn bà con cách chế biến, đóng gói, truy xuất nguồn gốc và đặc biệt là cách bán hàng online, điều mà trước kia nghe tưởng chuyện “trên trời”.
“Lúc đầu sợ lắm, cứ nghĩ lên mạng là phải biết chữ nhiều, biết vi tính, mà mình chỉ biết cầm cuốc, cầm dao rừng thôi. Nhưng mấy đứa trẻ trong buôn được cán bộ kêu phụ, dạy cách chụp hình, quay video. Mình học, rồi con gái cũng học, vậy là cà phê của buôn đi khắp nơi” - chị H’Lan kể, tay lau giọt mồ hôi trên trán!.
Từ vài chục ký cà phê rang xay thử nghiệm, nay sản phẩm của nhóm chị H’Lan đã có gian hàng trên các sàn thương mại điện tử lớn. Có ngày, chị đóng gói hàng trăm đơn gửi xe khách về thành phố. Người M’nông xa xôi bây giờ đã biết in nhãn mác, biết livestream giới thiệu sản phẩm. Đặc sản quê nhà không còn chịu cảnh “bán đổ bán tháo” cho thương lái.
Không chỉ riêng buôn Đắk R’măng, hàng trăm hộ dân ở Gia Lai, Kon Tum (cũ), Sơn La, Hà Giang (cũ),… cũng đang thay đổi cách làm. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp cùng các doanh nghiệp, hợp tác xã đưa nông dân tiếp cận thương mại điện tử, hướng dẫn quy trình sản xuất đạt chuẩn OCOP, xây dựng thương hiệu bản địa. Sản phẩm như cà phê, mắc ca, chuối sấy, trà shan tuyết, gạo đặc sản,… từng bước vượt núi, băng rừng ra thị trường lớn, thậm chí xuất khẩu.
Giờ đây, người dân vùng sâu không còn sợ công nghệ. Ngay giữa buôn làng, điện thoại thông minh trở thành công cụ quảng bá nông sản. Những sản phẩm “thủ công” gắn với câu chuyện văn hóa bản địa bỗng chốc chạm đến tay người tiêu dùng thành phố, mang về nguồn thu nhập mới, bền vững hơn cho cả cộng đồng.
Từ những buôn làng xa xôi ấy, hành trình ra “chợ online” không chỉ bán nông sản, mà còn bán được niềm tin, bán được giá trị của bàn tay cần cù biết làm giàu ngay trên chính đất mình. Và đằng sau đó, có bóng dáng của những người cán bộ nông nghiệp ngày đêm bám bản, bám buôn, mang tri thức và công nghệ về gần hơn với bà con.
Bước đi không ai đơn độc
Hành trình thoát nghèo hôm nay không còn là nỗ lực lẻ loi của một vài cá nhân đơn độc. Trên mỗi thửa ruộng, vườn cà phê hay cánh rừng keo, luôn in dấu chân của những cán bộ khuyến nông, những người mang kiến thức, kỹ thuật và khát vọng đổi thay đến tận từng nóc nhà.
Ở miền núi phía Bắc, nhiều hộ dân đã quen với hình ảnh những buổi tối đèn dầu sáng trong nhà văn hóa bản, nơi cán bộ xã, cán bộ khuyến nông cùng bà con ngồi quây quần học cách làm phân hữu cơ, cách ghép giống, cách giữ đất chống xói mòn. Những tấm bảng vẽ sơ đồ luân canh, quy trình phòng trừ sâu bệnh,… cứ thế thay đổi tập quán canh tác từ “cha truyền con nối” sang sản xuất bền vững hơn.
Không chỉ dừng lại ở hướng dẫn kỹ thuật, các tổ khuyến nông, cán bộ của Bộ Nông nghiệp và Môi trường còn là cầu nối đưa người dân tiếp cận chính sách tín dụng ưu đãi, bảo hiểm cây trồng, bảo hiểm rủi ro thiên tai. Bao nhiêu sổ vay vốn, bao nhiêu dự án sinh kế nhỏ được hình thành từ những buổi họp thôn, họp bản như thế. Hộ dân chưa từng dám nghĩ đến chuyện vay vốn vì sợ nợ, nay đã biết tính toán lỗ lãi, chủ động mở rộng sản xuất.
Đặc biệt, Chương trình Mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo bền vững đã trở thành “bệ đỡ” then chốt, mang lại nguồn lực thiết thực để không ai bị bỏ lại phía sau. Từ nguồn lực này, các dự án hỗ trợ sinh kế, phát triển sản xuất, đào tạo nghề, xây dựng hạ tầng thiết yếu như đường, điện, trường, trạm,… đã được triển khai sâu rộng, ưu tiên các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ đó, nhiều bản làng xa xôi có thêm đường bê tông thay lối mòn lầy lội, có thêm công trình nước sạch, có trường lớp kiên cố, con em được học hành, người lớn được tiếp cận kỹ năng nghề mới.
Bên cạnh đó, các tổ chức đoàn thể như hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội nông dân cũng tích cực vào cuộc, hình thành các nhóm hỗ trợ nhau cùng làm kinh tế. Những mô hình “Phụ nữ giúp nhau thoát nghèo”, “Thanh niên khởi nghiệp nơi quê hương” hay “Hộ khá giúp hộ khó” đã góp phần lan tỏa tinh thần đoàn kết, không ai đứng ngoài hành trình đổi thay chung.
Ở nhiều nơi, cán bộ vẫn bám bản, bám buôn, ăn ở cùng dân, kiên trì hướng dẫn bà con dựng chuồng trại, làm bể nước, trồng rừng giữ đất, quy hoạch lại đất sản xuất. Mỗi bước đi nhỏ, mỗi cách làm mới đều được nâng đỡ bởi một chính sách nhất quán: Giảm nghèo không chỉ dừng lại ở con số, mà phải bền vững, thực chất, gắn chặt với phát triển nông thôn và bảo vệ môi trường.
Hành trình vươn lên ấy, nhờ Chương trình Mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo bền vững, nhờ vai trò định hướng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng nỗ lực của chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể và bà con đã biến những ước mơ giản dị thành hiện thực: Thoát nghèo không chờ ai và không ai bị bỏ lại phía sau.
Khép lại một nghèo đói, mở ra niềm tin mới
Đói nghèo từng in dấu trong những mái nhà xiêu vẹo, những đứa trẻ thất học, những mùa giáp hạt bữa no bữa đói. Nhưng khi những bàn tay tự lực được tiếp thêm động lực, khi những chính sách đúng và trúng đến đúng người, nghèo đói đã và đang dần bị đẩy lùi khỏi từng xóm bản, từng buôn làng xa xôi.
Từ những vạt rau xanh trên sườn núi đá, những vườn cà phê sạch giữa đại ngàn, đến các gian hàng nông sản vươn ra chợ số, mỗi thành quả đều là kết tinh của mồ hôi, ý chí con người và sự đồng hành bền bỉ của Nhà nước. Bộ Nông nghiệp và Môi trường không chỉ mang kiến thức, công nghệ đến cửa nhà dân, mà còn tạo nên những hành lang chính sách, nguồn vốn và chuỗi liên kết để những bước chân đi lên không dừng lại giữa chừng.
Khép lại cái nghèo, cái đói không chỉ là xây được căn nhà mới hay có thêm vài hecta cây trồng, mà quan trọng hơn, người dân đã có niềm tin để làm chủ cuộc sống, dám mơ xa hơn về một tương lai đủ đầy. Niềm tin ấy không chỉ dừng lại ở một hộ, một thôn, mà đang lan ra cộng đồng để mỗi đứa trẻ được cắp sách đến trường, mỗi người mẹ không còn lo bữa đói bữa no, mỗi gia đình giữ được đất, giữ được rừng, gìn giữ nguồn sống lâu dài cho thế hệ sau.
Và khi đã có niềm tin, họ không chờ ai mang no đủ đến. Họ tự bước ra khỏi bóng tối của nghèo đói bằng chính đôi tay, khối óc và sự đồng hành trách nhiệm của cả cộng đồng, của ngành Nông nghiệp và Môi trường, của chính quyền địa phương.
Hành trình phía trước vẫn còn những con dốc, những mùa giông, nhưng con đường thoát nghèo bền vững đã có sẵn dấu chân mở lối. Từ những câu chuyện nhỏ hôm nay, một chương mới đang được viết nên, nơi nghèo đói lùi xa, nhường chỗ cho những giấc mơ lớn hơn, xanh hơn và nhân văn hơn.
Để rồi mỗi mùa lúa chín, mỗi phiên chợ rộn ràng hàng nông sản mang thương hiệu quê hương, mỗi tiếng cười trẻ nhỏ vang trên con đường mới - tất cả đều khẳng định một điều giản dị: Thoát nghèo không chờ ai, nhưng không ai bị bỏ lại phía sau.
Diệp Anh