Bài 1: Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) - Đổi mới sáng tạo vì nông nghiệp xanh, bền vững

28/07/2025

TN&MTKhông chỉ là cơ quan đầu mối điều phối các hoạt động khoa học và công nghệ, Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đang từng bước khẳng định vai trò là “kiến trúc sư trưởng” trong kiến tạo một nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, thích ứng với các yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững. Sáu tháng đầu năm 2025, những con số ấn tượng và kết quả chuyển giao thực tiễn đã minh chứng cho tầm nhìn chiến lược, sự chủ động và sáng tạo của đội ngũ làm khoa học nông nghiệp Việt Nam.

Ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số đang từng bước thay đổi diện mạo sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Từ nghiên cứu giống cây trồng trong nhà màng, cơ giới hóa đồng ruộng đến hệ thống quản lý thông minh - tất cả tạo nên chuỗi giá trị số, hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, sinh thái và bền vững trong kỷ nguyên công nghiệp 4.0.

Chủ động - sáng tạo - bền vững

Trong bối cảnh ngành nông nghiệp Việt Nam bước vào giai đoạn tái cơ cấu sâu rộng, yêu cầu phát triển xanh, tuần hoàn, thích ứng biến đổi khí hậu và hội nhập sâu với thị trường thế giới, vai trò của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng được khẳng định như một trụ cột then chốt. Sáu tháng đầu năm 2025, Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã ghi dấu ấn bằng những con số và thành tựu thiết thực: sắp xếp bộ máy tinh gọn, đầu tư chiều sâu, chuyển đổi số mạnh mẽ và lan tỏa những kết quả nghiên cứu sát thực tiễn.

Trong tiến trình hội nhập sâu rộng, phát triển bền vững, khoa học và công nghệ đã và đang khẳng định vai trò là động lực trực tiếp, là nền tảng vững chắc để ngành nông nghiệp Việt Nam đổi mới mô hình tăng trưởng, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu, chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Trên hành trình đó, Vụ Khoa học và Công nghệ giữ vai trò tham mưu chiến lược, là đầu mối hoạch định, điều phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của Bộ Nông nghiệp và Môi trường.

Sự kiện hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường kể từ tháng 3/2025 không chỉ là một bước đi quan trọng trong sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, mà còn mở ra yêu cầu cấp thiết về liên thông các lĩnh vực nghiên cứu, quy hoạch tài nguyên, bảo vệ môi trường, quản trị hệ sinh thái nông nghiệp. Trong bối cảnh đó, Vụ KHCN đã nhanh chóng tham mưu Bộ trưởng ban hành các quyết sách kịp thời, đảm bảo duy trì mạch nghiên cứu liên tục, không bị đứt gãy, đồng thời tinh gọn đầu mối để tập trung nguồn lực.

Một dấu ấn nổi bật là việc Vụ đã tham mưu Bộ triển khai Đề án sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực KHCN, đúng hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ. Theo đó, mạng lưới 21 tổ chức KHCN trước đây được sắp xếp gọn lại còn 9 viện nghiên cứu mũi nhọn, cùng với 6 trường đại học, học viện, 28 trường cao đẳng, bảo đảm phủ kín các lĩnh vực then chốt: trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, thủy lợi, địa chất – khoáng sản, khí tượng – môi trường – biển đảo.

Hệ thống 181 phòng thí nghiệm (trong đó có 3 phòng đạt chuẩn quốc gia và quốc tế) tiếp tục được đầu tư hiện đại hóa, tạo điều kiện cho các nhóm nghiên cứu đa ngành, liên ngành phát triển. Vụ KHCN cũng rà soát, xây dựng các quy trình, tiêu chuẩn phòng thí nghiệm, hướng dẫn quản lý thiết bị, nhân lực, liên kết chia sẻ dữ liệu nghiên cứu, đảm bảo hiệu suất vận hành cao, giảm trùng lặp, lãng phí.

Gắn nghiên cứu với thực tiễn - lan tỏa kết quả

Không chỉ dừng ở vai trò hoạch định chính sách, Vụ Khoa học và Công nghệ còn trực tiếp điều phối, giám sát, phản biện và đánh giá hiệu quả từng nhiệm vụ KHCN, đảm bảo mọi kết quả nghiên cứu không nằm trên giấy mà phải được đưa vào thực tiễn sản xuất, phục vụ doanh nghiệp, nông dân và chính quyền địa phương. Đây là điểm khác biệt lớn trong cách làm và tư duy điều hành khoa học mới đặt hiệu quả thực tiễn làm trung tâm.

Từ năm 2021 đến giữa năm 2025, toàn ngành đã thực hiện 1.224 nhiệm vụ khoa học - công nghệ, trong đó có 168 nhiệm vụ mở mới, thể hiện rõ sự chủ động bám sát thực tiễn trong xây dựng và lựa chọn đề tài. Đặc biệt, có tới hơn 3.665 bài báo quốc tế và 6.545 bài báo trong nước được công bố, chứng minh sức sống và hàm lượng học thuật của các kết quả nghiên cứu, đồng thời lan tỏa rộng rãi tới cộng đồng khoa học trong và ngoài nước.

Hàng trăm giống cây trồng, vật nuôi, quy trình công nghệ và tiến bộ kỹ thuật đã được chuyển giao trực tiếp đến các vùng sản xuất trọng điểm như Đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long… Từ các giống lúa, ngô, đậu tương, nho NH02-97, đến hơn 75 tấn hạt ngô lai F1, 130 tấn đậu tương giống, 10.000 cây giống nho đã được nhân rộng, phát triển tại các vùng chuyên canh, mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực, giúp nông dân tiếp cận công nghệ mới dễ dàng hơn.

Đặc biệt, nhiều nhiệm vụ nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ sinh học đã giúp các viện, trung tâm làm chủ các công nghệ gen, chỉ thị phân tử, CRISPR/Cas9 và công nghệ tế bào - mở ra hướng chọn tạo giống cây – con có năng suất cao, kháng bệnh, chịu hạn mặn. Chẳng hạn, mã vạch DNA (DNA barcode) đang được ứng dụng trong kiểm định giống lúa và cây dược liệu, truy xuất nguồn gốc – một yêu cầu bắt buộc của thị trường quốc tế.

Trong lĩnh vực chăn nuôi - thú y, ngoài các dòng lợn đực cuối cùng DVN1, DVN2 và tổ hợp lợn nái PS1, PS2, các giống gà bản địa HTP, MLV, RTN, gà hướng trứng DG63, DT51, GB15... đã được cải tiến nhằm tăng năng suất trứng, giảm tiêu tốn thức ăn. Cùng với đó, nhiều loại vaccine nhị giá, enzyme sinh học, chế phẩm vi sinh thay thế kháng sinh đã đạt hiệu quả bảo hộ cao (trên 80–100%), tạo tiền đề thương mại hóa.

Ở mảng lâm nghiệp, hệ thống truy xuất nguồn gốc gỗ hợp pháp iTWood – một sản phẩm ứng dụng CNTT nổi bật – đã được mở rộng ra 3 vùng trọng điểm, quản lý hơn 6.150 ha rừng trồng của 1.600 hộ dân và hơn 200 doanh nghiệp, bảo đảm minh bạch trong chuỗi cung ứng gỗ. Các quy trình chế biến, xử lý gỗ bằng vi sinh, công nghệ ván sàn từ gỗ biến tính cũng đạt tiêu chuẩn quốc tế, gia tăng giá trị cho gỗ rừng trồng trong nước.

Điều đáng nói là nhiều kết quả nghiên cứu đã được trích dẫn trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật, tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật, trở thành luận cứ khoa học cho việc sửa đổi, ban hành chính sách mới. Từ hệ thống tiêu chuẩn phòng thí nghiệm, đến bộ chỉ tiêu đánh giá giống, quy trình kiểm dịch thực vật, thú y, bảo vệ môi trường đều có sự tham gia phản biện từ đội ngũ nghiên cứu do Vụ KHCN điều phối.

Nhờ làm tốt vai trò “bắc cầu” giữa nghiên cứu – sản xuất – chính sách, Vụ Khoa học và Công nghệ đang từng bước hình thành mạng lưới chuyển giao tiến bộ kỹ thuật theo hướng mở, đa chiều và có chiều sâu, trong đó nhà nước đóng vai trò kiến tạo, nhà khoa học cung cấp tri thức, doanh nghiệp dẫn dắt thị trường, nông dân là người áp dụng và phản hồi thực tiễn.

Chính nhờ sự gắn kết này, các tiến bộ kỹ thuật đã giúp nâng năng suất 10–30% so với phương thức truyền thống, tiết kiệm chi phí đầu vào, nâng cao năng lực cạnh tranh nông sản và góp phần thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.

Những kết quả ấn tượng nửa đầu năm 2025

Sáu tháng đầu năm 2025 khép lại với nhiều kết quả nổi bật, thể hiện tầm vóc, quy mô và hiệu quả lan tỏa của các nhiệm vụ khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số do Vụ Khoa học và Công nghệ tham mưu và tổ chức triển khai. Những con số ấn tượng không chỉ phản ánh sự nỗ lực chuyên môn của đội ngũ các nhà khoa học mà còn chứng minh rõ nét việc “biến nghiên cứu thành lực kéo thực tiễn sản xuất”, từ phòng thí nghiệm đến ruộng đồng, trang trại và doanh nghiệp.

Trong lĩnh vực trồng trọt, giai đoạn 2021–2025 đã triển khai 259 nhiệm vụ KHCN, riêng 6 tháng đầu năm 2025 đã nghiệm thu 14 đề tài, công nhận lưu hành 19 giống cây trồng mới, trong đó có nhiều giống lúa, ngô, đậu tương, nho… thích ứng biến đổi khí hậu, năng suất vượt trội, rút ngắn thời gian sinh trưởng 7–10 ngày, tiết kiệm 10–15% chi phí sản xuất. Đáng chú ý, các nhiệm vụ nghiên cứu đã cho ra đời 60.000 bộ KIT chẩn đoán bệnh Greening dạng màng, với độ chính xác trên 90% so với PCR, bảo quản dễ dàng, giá thành phù hợp, giúp nông dân phát hiện sớm bệnh hại cam, chanh – vốn là nguyên nhân gây mất trắng hàng trăm ha/năm ở các vùng chuyên canh.

Ngoài ra, Vụ đã phối hợp tổ chức sản xuất và nhân giống thành công hơn 75 tấn ngô lai F1, 130 tấn đậu tương giống, 10.000 cây giống nho NH02-97, chuyển giao đến các vùng sản xuất trọng điểm như Sơn La, Ninh Thuận, Nghệ An, Hà Nam… góp phần nâng cao năng suất cây trồng, cải thiện thu nhập cho hàng chục nghìn nông hộ.

Trong lĩnh vực công nghệ sinh học, các viện nghiên cứu đã làm chủ công nghệ gen, chỉ thị phân tử, công nghệ tế bào và kỹ thuật CRISPR/Cas9. Nhiều giống cây mới có hàm lượng dinh dưỡng cao, khả năng chống chịu tốt đã được tạo ra như giống đậu tương tăng axit béo Oleic, ngô tăng số hàng hạt, cây dược liệu có hàm lượng hoạt chất ổn định… Đồng thời, công nghệ mã vạch DNA (DNA barcode) đang được ứng dụng rộng rãi để truy xuất nguồn gốc giống cây trồng, vật nuôi và cây dược liệu.

Ở lĩnh vực chăn nuôi – thú y, Bộ đã thực hiện 112 nhiệm vụ trong giai đoạn 2021–2025. Riêng 6 tháng đầu năm 2025 đã ghi nhận nhiều kết quả thực chất: 29 tiến bộ kỹ thuật (TBKT) được công nhận, trong đó có 23 TBKT về giống, 3 TBKT về khẩu phần dinh dưỡng, 3 TBKT về quy trình phòng bệnh và xử lý môi trường chăn nuôi. Vụ đã chỉ đạo chọn tạo thành công các dòng lợn đực cuối cùng DVN1, DVN2, tổ hợp nái lai PS1, PS2 có khả năng sinh sản cao, giảm chi phí thức ăn và thời gian nuôi. Các giống gà lông màu bản địa như HTP, MLV, RTN và các dòng gà hướng trứng DG63, DT51, GB15 đạt năng suất trứng vượt trội, phù hợp với nhiều mô hình nuôi bán công nghiệp.

Ngoài ra, các viện chuyên ngành đã thử nghiệm thành công nhiều loại vaccine nhị giá, chế phẩm vi sinh, enzyme thay thế kháng sinh, đạt hiệu lực bảo hộ từ 80–100%, mở đường cho thương mại hóa, góp phần giảm nguy cơ dịch bệnh và tình trạng lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi – vấn đề đang được thị trường châu Âu và các nước G7 đặc biệt quan tâm.

Trong lĩnh vực lâm nghiệp, 6 tháng đầu năm đã ghi nhận việc công nhận 20 giống cây lâm nghiệp mới, gồm các giống keo, bạch đàn, chiêu liêu, dẻ cau… có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt, phù hợp nhiều vùng sinh thái. Hệ thống iTWood – truy xuất nguồn gốc gỗ hợp pháp tiếp tục được nâng cấp, mở rộng ra 3 vùng trọng điểm: Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, kết nối hơn 1.600 hộ trồng rừng, quản lý 6.150 ha rừng trồng và trên 200 doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị gỗ. Phần mềm iTWood cũng đã được tích hợp dữ liệu trực tuyến, cho phép kiểm tra nguồn gốc gỗ mọi lúc, mọi nơi – đây là bước tiến quan trọng để đạt chứng chỉ FSC, phục vụ xuất khẩu vào thị trường EU, Hoa Kỳ.

Nhiều quy trình chế biến gỗ mới cũng được nghiên cứu và triển khai: từ sản xuất ván dán, ván sàn từ gỗ biến tính, đến xử lý bảo quản gỗ bằng chế phẩm vi sinh, tất cả đều đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao giá trị gia tăng cho gỗ rừng trồng trong nước. Các kết quả nghiên cứu cũng là cơ sở để phân tích chuỗi giá trị, xây dựng công cụ quản lý minh bạch và kết nối thương mại điện tử.

Về tổng thể, các kết quả đạt được đã góp phần nâng năng suất sản xuất từ 10–30% so với phương thức truyền thống; giảm chi phí đầu vào từ 15–25%; cải thiện thu nhập cho hàng chục nghìn nông hộ; đồng thời nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, chuẩn hóa hệ thống phòng thí nghiệm, thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm khoa học – công nghệ.

ảnh minh hoạ

Chuyển đổi số: từ khẩu hiệu thành hành động

Nửa đầu năm 2025, Vụ KHCN chỉ đạo quyết liệt chuyển đổi số đồng bộ. Tiêu biểu như hệ thống quản lý phòng thí nghiệm tự động theo chuẩn ISO/IEC 17025, tiết kiệm 30 - 40% thời gian, nhân lực.

Các cơ sở dữ liệu giống cây trồng, vật nuôi, bản đồ vùng an toàn dịch bệnh được chuẩn hóa, liên thông giữa Viện – Cục – Địa phương. Ứng dụng AI, học máy trong dự báo năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi đã bước đầu hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở.

Trong lâm nghiệp, hệ thống iTWood đã nâng cấp giao diện thân thiện, truy xuất nguồn gốc trực tuyến. Trong thú y, bản đồ số vùng dịch, phần mềm cảnh báo sớm đã hỗ trợ khoanh vùng, kiểm soát nhanh ổ dịch.

Vụ cũng số hóa toàn bộ quy trình nghiên cứu – xét duyệt – nghiệm thu – giải ngân nhiệm vụ, tăng tính minh bạch, giảm 15–20% thời gian xử lý thủ tục, tăng hiệu quả sử dụng ngân sách KHCN.

Ghi nhận và kỳ vọng

Nhìn lại chặng đường 6 tháng đầu năm 2025, những kết quả mà Vụ Khoa học và Công nghệ cùng toàn ngành đã đạt được không chỉ thể hiện qua những con số ấn tượng hay các sản phẩm công nghệ cụ thể, mà quan trọng hơn là đã khẳng định vị thế, uy tín và sức lan tỏa của lực lượng nghiên cứu khoa học nông nghiệp và môi trường Việt Nam trên trường quốc tế.

Hàng loạt công trình nghiên cứu đã và đang góp phần trực tiếp vào việc thực hiện tái cơ cấu ngành, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng sản phẩm nông nghiệp, phát triển lâm nghiệp bền vững, quản lý tài nguyên – môi trường hiệu quả, thích ứng với biến đổi khí hậu. Các viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm, nhóm nghiên cứu liên ngành đã trở thành cánh tay nối dài của các cục, vụ chuyên môn, doanh nghiệp và địa phương trong quá trình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn.

Đáng chú ý, trong 6 tháng đầu năm 2025, nhiều nhà khoa học, tập thể nghiên cứu thuộc Vụ KHCN và các đơn vị trực thuộc đã vinh dự được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ, cùng hàng chục giải thưởng Nhân tài Đất Việt, Giải sáng kiến KHCN cấp bộ, ngành. Đây là sự ghi nhận xứng đáng cho những nỗ lực lao động sáng tạo, là minh chứng rõ nét cho tinh thần cống hiến bền bỉ của đội ngũ làm khoa học.

Theo báo cáo tổng hợp, giai đoạn 2021–2025, toàn ngành đã triển khai hơn 1.200 nhiệm vụ KHCN, công bố trên 3.600 bài báo quốc tế, hàng trăm sáng chế, giải pháp hữu ích, đăng ký nhiều giống cây trồng, vật nuôi thế hệ mới, phát triển các mô hình sản xuất thích ứng biến đổi khí hậu, tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải khí nhà kính.

Từ những nghiên cứu này, hàng nghìn kết quả đã được chuyển giao vào thực tiễn, giúp tạo ra hàng trăm nghìn ha diện tích trồng trọt ứng dụng giống mới, hàng triệu con giống vật nuôi thế hệ mới, hàng trăm doanh nghiệp lâm sản áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc minh bạch, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những ghi nhận đáng trân trọng, cũng xuất hiện nhiều kỳ vọng lớn lao đối với Vụ KHCN trong giai đoạn tới. Đó là yêu cầu tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cả về tư duy, mô hình tổ chức nghiên cứu, phương pháp triển khai, cũng như tốc độ chuyển giao và thương mại hóa kết quả khoa học. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, các cam kết giảm phát thải ròng, chuyển đổi xanh – số, truy xuất nguồn gốc và trách nhiệm môi trường đang trở thành điều kiện bắt buộc để nông nghiệp Việt Nam duy trì thị trường xuất khẩu và nâng cao giá trị.

Đặc biệt, sự phát triển nhanh của các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ chuỗi khối (blockchain), vật liệu sinh học, enzyme công nghiệp, robot nông nghiệp, cảm biến môi trường đang đặt ra yêu cầu cấp thiết về nắm bắt xu thế – học hỏi nhanh – làm chủ công nghệ và từng bước chuyển hóa thành sản phẩm, quy trình, dịch vụ thương mại hóa.

Bối cảnh mới cũng đòi hỏi Vụ KHCN phải phát huy vai trò là “kiến trúc sư trưởng” của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ngành Nông nghiệp và Môi trường, trong đó không chỉ tổ chức triển khai nghiên cứu mà còn thiết kế thể chế, cơ chế tài chính, mạng lưới hợp tác, nền tảng dữ liệu số, và công cụ đánh giá hiệu quả đổi mới.

Giữ vững mục tiêu đó, Vụ Khoa học và Công nghệ đã xác định: khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ tiếp tục là đòn bẩy then chốt để ngành nông nghiệp và môi trường thực hiện thành công các mục tiêu Chiến lược phát triển đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Vụ sẽ tiếp tục tập trung tham mưu hoàn thiện thể chế, phát triển cơ chế tài chính đặc thù, thúc đẩy tự chủ cho các viện, trường; mở rộng hợp tác công – tư, quốc tế hóa mạng lưới nghiên cứu, hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở.

Những định hướng này không chỉ là định hướng kỹ thuật – quản lý, mà là cam kết đổi mới về tư duy, khẳng định vai trò “bệ đỡ” của khoa học – công nghệ cho một nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, xanh và bền vững.

Từ những thành tựu hôm nay, Vụ Khoa học và Công nghệ đang sẵn sàng bước vào giai đoạn phát triển mới với tâm thế chủ động – sáng tạo – liên kết – hiệu quả, đưa khoa học trở thành động lực then chốt cho nông nghiệp và môi trường Việt Nam phát triển bền vững.

Hồng Minh

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Địa phương đề xuất thẳng thắn - Trung ương cần cơ chế kịp thời

Hoàn thiện Bộ tiêu chí Nông thôn mới giai đoạn 2026-2030: Phân nhóm xã sát thực tiễn, nâng tầm mục tiêu hiện đại và giảm nghèo bền vững

Nông nghiệp - Môi trường sau sáp nhập: Chung sức vượt khó, vững vai trụ cột

Thủ tướng: Tạo đột phá về năng lực phòng chống thiên tai, lập phương án sơ tán đến từng hộ dân

Nông nghiệp

Tìm đầu ra cho sản phẩm OCOP qua nhiều kênh phân phối ở Quảng Trị

Tỉnh Cà Mau công bố hoàn thành chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát

Quảng Trị: Mô hình phát triển kinh tế cho đồng bào hai bên biên giới Việt - Lào

TP. Hồ Chí Minh: Không còn hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều

Tài nguyên

Tập trung nguồn lực, nâng cao hiệu quả thực hiện Đề án khoáng sản chiến lược

Rà soát, chuẩn hoá lại các thủ tục hành chính về đất đai

Tập trung điều tra địa chất và khoáng sản biển

Quảng Ninh: Chủ động quản lý khoáng sản, hướng tới phát triển bền vững

Môi trường

Kiểm lâm Bắc Ninh: Dấu ấn 6 tháng đầu năm

Giải pháp xây dựng lộ trình cho khu vực phát thải thấp ở Việt Nam

Phân loại rác và nói không với thuốc lá - Hướng đến môi trường y tế an toàn

Hà Nội: Phường Kiến Hưng đồng loạt ra quân vệ sinh môi trường, trật tự đô thị

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Bài 2: Tăng tốc đổi mới sáng tạo - Tầm nhìn đến 2045 của Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)

Bài 1: Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) - Đổi mới sáng tạo vì nông nghiệp xanh, bền vững

Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh đăng cai Hội nghị khoa học ngành heo lớn nhất thế giới

Công nghệ vũ trụ Việt Nam: Chìa khóa là con người và thể chế

Chính sách

Trường Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh: Muốn vươn xa, cần đầu tư bài bản

Thủ tướng yêu cầu nhanh chóng khắc phục hậu quả bão số 3 và mưa lũ

Tập trung ứng phó khẩn cấp với mưa lũ trên lưu vực sông Cả

Bộ NN-MT yêu cầu địa phương khẩn trương gia cố tuyến đê trực diện biển

Phát triển

Doanh nghiệp nông sản Việt trên hành trình xanh hóa: Đổi mới để phát triển bền vững

Đắk Lắk: Ra quân cao điểm đảm bảo trật tự đô thị, trật tự công cộng và an toàn giao thông

Bắc Ninh ra quân trấn áp mạnh vi phạm giao thông ngay sau bão số 3

Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội thông báo ngưỡng đảm bảo chất lượng và quy đổi tương đương giữa các phương án tuyển sinh

Diễn đàn

34 cộng đồng dân cư ở Nghệ An hưởng lợi từ nguồn thu từ giảm phát thải khí nhà kính của Vườn quốc gia Pù Mát

Thời tiết ngày 27/7: Bắc Bộ nắng nóng, Thanh Hóa đến Đà Nẵng cục bộ mưa to

Thời tiết ngày 26/7: Bắc Bộ nắng gián đoạn, Hà Tĩnh đến Đà Nẵng mưa rất to

Thời tiết ngày 25/7: Nhiều khu vực trên cả nước mưa to đến rất to